Sidebar

Magazine menu

21
T7, 06

 

 

QUY TẮC CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ THỰC TIỄN VẬN DỤNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

Nguyễn Thị Hồng[1]

 

Tóm tắt

            Hiện nay, các nhà kinh tế đã chỉ ra rằng việc thực thi chính sách tiền tệ theo quy tắc có nhiều ưu điểm hơn so với dạng tùy nghi vì nó đảm bảo được sự thống nhất và tạo được niềm tin của công chúng đối với ngân hàng Trung ương. Về lâu dài, điều đó sẽ giúp giảm bớt được chi phí của việc thực hiện các chính sách trong tương lai. Trên thế giới, có 4 quy tắc chính sách tiền tệ cơ bản là quy tắc k% của Milton Friedman, quy tắc lãi suất của Taylor, quy tắc lượng tiền cơ sở của McCallum và quy tắc lạm phát mục tiêu. Bài viết này sẽ giới thiệu các quy tắc, phân tích ưu và nhược điểm của từng quy tắc. Đồng thời, bài viết tìm hiểu thực tiễn vận dụng quy tắc trong điều hành chính sách tiền tệ của một số nước trên thế giới, từ đó, rút ra bài học cho NHTW các nước khi thực thi chính sách tiền tệ theo quy tắc.

Từ khóa: Quy tắc chính sách tiền tệ, quy tắc k%, quy tắc Taylor, quy tắc McCallum.

Abstract

Many economists agree that implementation of monetary policy by rule has many advantages over discretionary policy because it ensures unity and helps the central bank to gain confidence from the public. In the long term, it will help reduce the cost of implementing policies in the future. There are four basic monetary policy rules including Milton Friedman's k% rule, Taylor's interest rate rule, McCallum's monetary base rule and inflation targeting rule. This paper is to introduce, analyze the advantages and disadvantages of each rule. The paper also explores the practice of conducting monetary policy based on such rules of some central banks, thereby, lessons can be drawn for other central banks in the world.

Keywords: monetary policy rules, k% rule, Taylor's interest rate rule, McCallum's monetary base rule.

 

1. Đặt vấn đề

            Trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT), ngân hàng Trung ương (NHTW) đứng trước hai sự lựa chọn: Một là thực thi chính sách linh hoạt (hay tùy nghi), tức là tùy theo điều kiện thực tế tại từng thời điểm, NHTW có thể ra các quyết định phù hợp nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra; Hai là tuân thủ các quy tắc điều hành đã được đề ra từ trước. Đã có nhiều nghiên cứu (Kydland và Prescott, 1977; Barro và Gordon, 1983 Cargill and O’Driscoll, 2013; Salter, 2014,…) chỉ ra rằng, việc thực thi CSTT theo quy tắc đem lại nhiều ưu điểm hơn so với CSTT dạng tùy nghi như: đảm bảo được sự thống nhất trong điều hành hơn, minh bạch hóa và nâng cao trách nhiệm giải trình của NHTW trong các quyết định chính sách đưa ra. Từ đó nâng cao niềm tin của công chúng vào NHTW và làm tăng hiệu quả của CSTT trong tương lai.

            Có nhiều quy tắc đưa ra cho việc thực thi CSTT, song việc lựa chọn quy tắc nào và tuân thủ ở mức độ ra sao còn tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước. Ở Việt Nam, những năm qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tích cực sử dụng CSTT để tác động đến nền kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình điều hành CSTT, NHNN thường theo đuổi đồng thời nhiều mục tiêu, trong nhiều trường hợp các mục tiêu có thể mâu thuẫn hoặc không thể đạt được cùng lúc (Lê Thị Ngọc Liên, 2015). Bên cạnh đó, việc thực thi CSTT có vẻ như còn thiếu một cơ sở lý luận vững chắc do vậy thường dẫn đến những phản ứng thụ động, không hiệu quả hoặc gây sốc cho nền kinh tế (Nguyễn Thế Anh, 2011) hay làm mất niềm tin về những cam kết CSTT của NHNN và tăng chi phí cho việc thực thi CSTT trong tương lai.

            Hiện nay nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới nên không thể tránh khỏi những tác động và cú sốc từ phía bên ngoài. Để giành thế chủ động mang tính dài hạn và tăng tính hiệu quả của CSTT cần phải có nguyên tắc cụ thể trong điều hành CSTT. Do vậy, việc nghiên cứu các quy tắc trong điều hành CSTT và thực tiễn vận dụng quy tắc CSTT của NHTW một số nước trên thế giới là vô cùng cần thiết. Trên cơ sở đó NHNN Việt Nam có thể tham khảo và rút ra bài học kinh nghiệm khi theo đuổi CSTT có quy tắc.

2. Các quy tắc điều hành chính sách tiền tệ

            Trên thế giới, có 4 quy tắc CSTT tệ cơ bản (Salter, 2014) đó là quy tắc về tốc độ tăng cung tiền của Milton Friedman (quy tắc k%), quy tắc lãi suất của Taylor, quy tắc lượng tiền cơ sở của McCallum và quy tắc lạm phát mục tiêu (Inflation Targeting – IT).

2.1. Quy tắc k% của Milton Friedman

            Quy tắc Milton Friedman được coi là một trong những quy tắc đơn giản nhất của CSTT, theo đó, lượng cung tiền nên được tăng theo một tỷ lệ phần trăm cố định (k%) theo thời gian (Friedman 1960, 1968).

∆M = k = ∆P + ∆Y - ∆V

Trong đó, ΔM là tốc độ tăng cung tiền, ΔV là tốc độ chu chuyển tiền tệ, ΔP là mức lạm phát và ΔY là tốc độ tăng trưởng của sản lượng.

Friedman đưa ra quy tắc này dựa trên quan điểm là các biến số kinh tế trong dài hạn độc lập với CSTT. Lãi suất, tỷ lệ thất nghiệp và sản lượng trong dài hạn được quyết định với các yếu tố công nghệ, do đó liên quan tới phía cung. CSTT, ngược lại, có liên quan tới phía cầu. Mặc dù CSTT có thể ảnh hưởng tới các biến số thực trong ngắn hạn (ví dụ như tăng cung tiền có thể làm giảm lãi suất và tăng sản lượng) nhưng những biến số này trong dài hạn sẽ hướng dần về mức tự nhiên của chúng. Do vậy, theo Friedman, NHTW không nên can thiệp vào các biến số đó mà nên tăng cung tiền theo một tỷ lệ ấn định trước cho mọi thời kỳ và không nên thay đổi tỷ lệ này (White, 1999).

2.2. Quy tắc Taylor

            Năm 1993, John Brian Taylor, đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm đối với chính sách lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) trong giai đoạn 1980-1990 và phát hiện ra rằng biến động lãi suất điều hành của Fed tuân thủ theo một quy tắc nhất định trong mối tương quan với lạm phát và tăng trưởng kinh tế (Orphanides, 2003). Ông đã tiến hành mở rộng nghiên cứu và khái quát hóa mẫu hình của lãi suất giai đoạn đó thành một quy tắc điều hành lãi suất của NHTW và gọi là quy tắc Taylor. Sau khi quy tắc Taylor nguyên bản ra đời các nhà kinh tế đã phát triển nhiều phiên bản của nó bằng việc bổ sung thêm một số yếu tố khác vào mô hình hoặc kết hợp với các quy tắc khác.

2.2.1. Quy tắc Taylor nguyên bản

            Quy tắc nguyên bản (gốc) được Taylor công bố trong hội thảo Carnegie-Rochester lần thứ 39 về Chính sách công. Nó mở ra hệ tư tưởng mới về điều hành CSTT của các nhà hoạch định chính sách tại NHTW. Quy tắc này có dạng:

it = πt + r + α(πt – π*) + β(yt)

            Trong đó:

            it: lãi suất ngắn hạn định hướng (điều hành) của NHTW,

            πt: tỷ lệ lạm phát thực tế,

            π*: tỷ lệ lạm phát mục tiêu,

            r: lãi suất thực tế cân bằng,

            yt: độ lệch tổng sản lượng so với mức tiềm năng. Với: yt = 100×(Y – Y*)/Y hoặc yt = 100×(lnY – lnY*) (Kozicki, 1999). Trong đó: Y: GDP thực tế, Y*: GDP tiềm năng

            α , β > 0: hệ số phản ứng của lãi suất với độ lệch lạm phát và độ lệch sản lượng. Nó phản ánh mức mà các nhà hoạch định CSTT phải điều chỉnh lãi suất điều hành bất cứ khi nào khi lạm phát thực tế lệch khỏi mức lạm phát mục tiêu và/hoặc khi sản lượng thực tế lệch khỏi mức sản lượng tiềm năng. Nhìn chung, mỗi quốc gia có một đặc điểm về mức độ đánh đổi giữa các mục tiêu, thể chế và cấu trúc nền kinh tế nên sẽ có hệ số phản ứng của CSTT trước biến động của lạm phát và sản lượng là khác nhau.

            Khi vận dụng quy tắc ở trên, nếu lạm phát và/hoặc sản lượng cao hơn mức mong muốn thì NHTW cần phải nâng lãi suất. Bởi khi lãi suất tăng lên sẽ làm giảm tổng cầu, dẫn đến giá cả và sản lượng giảm xuống từ mức hiện tại được cho là cao hơn so với mong muốn. Ngược lại, nếu lạm phát và sản lượng ở dưới mức mục tiêu, NHTW lại bơm tiền vào lưu thông làm giảm lãi suất, từ đó kích thích gia tăng tổng cầu. Kết quả là mức giá và sản lượng sẽ tăng.

2.2.2. Quy tắc Taylor mở rộng

            Cho đến nay, quy tắc Taylor gốc đã phát triển dưới nhiều dạng biến thể (Modified Taylor Rule) khác nhau tùy thuộc mốc thời gian lựa chọn. Dưới đây là 3 dạng biến thể phổ biến của quy tắc Taylor.

  1. Dạng nhìn về quá khứ (backward-looking)

            Quy tắc Taylor dạng nhìn về quá khứ phản ánh cách điều chỉnh lãi suất định hướng của NHTW trước sự chênh lệch của tỷ lệ lạm phát trong quá khứ (n thời kỳ trước) với giá trị mục tiêu, chênh lệch của sản lượng trong quá khứ (m thời kỳ trước) so với mức sản lượng tiềm năng và các biến khác trong quá khứ (như tỉ giá hối đoái, giá tài sản và các biến tài chính,…). Việc lựa chọn thêm các biến vào mô hình tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của từng nước và giả thiết của mô hình nghiên cứu. Quy tắc Taylor dạng nhìn về quá khứ do Woglom (2003) đưa ra có dạng tổng quát như sau:

it = πt-n + r + α(πt-n – π*) + β(yt-m)

            Trong đó: 0 < n, m < t

            Khi xem xét yếu tố hội nhập kinh tế quốc tế, biến tỷ giá hối đoái (TGHĐ) được đưa thêm vào phương trình thì quy tắc này có dạng:

it = πt-n + r + α(πt-n – π*) + β(yt-m) + ɤ(et-p)

            Trong đó: 0 < p < t, e: TGHĐ, ɤ: hệ số phản ứng của lãi suất với TGHĐ.

            Như vậy, khi áp dụng quy tắc Taylor dạng nhìn về quá khứ, các nhà hoạch định CSTT sẽ nhìn lại các giá trị quá khứ của lạm phát, tăng trưởng kinh tế và các biến số khác để hoạch định CSTT cho tương lai.

  1. Dạng hướng về tương lai (forward-looking)

            Quy tắc Taylor nguyên bản xem xét độ lệch của lạm phát so với mục tiêu trong 4 quý gần nhất. Tuy nhiên, trong thực tế, các NHTW thường không có xu hướng sử dụng lạm phát trong quá khứ hay ở hiện tại, thay vào đó là sử dụng lạm phát kỳ vọng. Do đó, Clarida và cộng sự (1998, 2000), Rudebusch và Svensson (1999), Orphanides (2001), Qin và Enders (2008) đã phát triển dạng hướng về tương lai của quy tắc Taylor:

            Trong đó:

            : mức lạm phát kỳ vọng trong giai đoạn (t, t+n) tại thời điểm t

            : độ lệch sản lượng trung bình kỳ vọng trong giai đoạn (t, t+m) tại thời điểm t

            Khi xem xét yếu tố hội nhập kinh tế quốc tế, biến TGHĐ được đưa thêm vào phương trình thì quy tắc hướng về tương lai có dạng:

            Trong đó:

            : mức TGHĐ kỳ vọng trong giai đoạn (t, t+q) tại thời điểm t

            Quy tắc Taylor dạng hướng về tương lai phản ánh cách điều chỉnh lãi suất định hướng của NHTW trước sự chênh lệch của tỷ lệ lạm phát dự kiến (trong n thời kỳ tới) với giá trị mục tiêu, chênh lệch sản lượng dự kiến (của m thời kỳ tới) với mức sản lượng tiềm năng và các biến khác trong tương lai.

  1. Dạng hỗn hợp (hybrid)

            Trong công thức Taylor nguyên bản, Taylor cho rằng NHTW sẽ điều chỉnh lãi suất khi các biến số thực tế lệch khỏi mức mục tiêu. Tuy nhiên, trong thực tiễn số liệu về các biến số thực tế này chỉ có được sau một khoảng thời gian nhất định. Do vậy, nhiều nhà kinh tế cho rằng cần xem xét độ trễ của các biến số và đưa thêm vào công thức (Mansour Samia, 2009).          Bằng việc bổ sung độ trễ của biến số lãi suất thực tế vào công thức Williams (1999) đã đưa ra biến thể của quy tắc Taylor có dạng sau:

it = φrt-1 + (1-φ)[r + α(πt – π*) + β(yt)]

            Trong đó φ phản ánh mức độ ổn định/điều hòa (smoothing degree) của CSTT. Thông thường lãi suất điều hành của NHTW có xu hướng ổn định hoặc điều chỉnh từ từ trước những biến động của nền kinh tế bởi nếu thay đổi đột ngột sẽ gây ra bất ổn hoặc tạo ra cú sốc. Nghiên cứu của Clarida, Gali và Gertler (2000) cho thấy hệ số φ của rất nhiều nước có giá trị khá lớn, điều đó chứng minh rằng NHTW các nước đều mong muốn giữ ổn định mức lãi suất chính sách.

            Biến thể của quy tắc Taylor dạng hỗn hợp tiếp theo là bổ sung thêm độ trễ của TGHĐ, đây cũng là biến số quan trọng ảnh hưởng đến mức lạm phát tương tự như lãi suất. Biến thể này do Svensson (1998) và Ball (1999) đề xuất, đặc biệt là sau khi họ nghiên cứu trường hợp của NHTW Canada và cho kết quả rất khả quan.

            Trong đó et là tỷ giá hói đoái thực tế và là tỷ giá hói đoái cần bằng.

            Ngoài ra, Barnett và Duzhak (2008) còn đưa ra biến thể dạng hỗn hợp của quy tắc Taylor (không bao gồm yếu tố TGHĐ) như sau:

            Trong đó:

            A là vector (α1, α 2,…, α n) tương ứng với thời kỳ (t+1, t+2,…, t+n);

            B là vector (β1, β2,…, βm) tương ứng với thời kỳ (t-1, t-2,…, t-m);

            0 < m < t.

            Dạng biến thể này cho thấy NHTW thiết lập mức lãi suất dựa trên mức lạm phát kỳ vọng và độ lệch sản lượng trong quá khứ.

2.3. Quy tắc McCallum

            Quy tắc McCallum (1987, 1988, 1993, 2006) cho rằng NHTW nên điều chỉnh tốc độ tăng lượng tiền cơ sở bất cứ khi nào GDP danh nghĩa lệch khỏi mức mục tiêu. Cụ thể, khi tốc độ tăng GDP danh nghĩa thấp hơn mức mục tiêu, NHTW cần phải kích thích nền kinh tế bằng cách tăng lượng tiền cơ sở và ngược lại:

            Trong đó:

ΔB là tốc độ tăng của lượng tiền cơ sở,

            Δx* là tốc độ tăng GDP danh nghĩa mục tiêu, được tính bằng tỷ lệ lạm phát cộng với tốc độ tăng của GDP thực tế trong dài hạn (hoặc GDP thực tế tiềm năng)

            Δx là tốc độ tăng của GDP danh nghĩa,

             là tốc độ vòng quay tiền cơ sở bình quân trong 16 quý,

            β là hệ số cho biết lượng tiền cơ sở nên thay đổi ra sao để phản ứng trước việc thu nhập danh nghĩa lệch khỏi mức thu nhập danh nghĩa mục tiêu. Hệ số này phụ thuộc vào đặc điểm nền kinh tế và CSTT mỗi nước.           

2.4. Quy tắc kết hợp Taylor-McCallum

2.4.1. Mô hình kết hợp giữa tốc độ tăng tiền cơ sở, độ lệch lạm phát và độ lệch sản lượng

Quy tắc McCallum cho thấy cách thức NHTW điều chỉnh lượng tiền cơ sở khi GDP danh nghĩa lệch khỏi mức GDP danh nghĩa mục tiêu mà không đề cập đến phản ứng của NHTW khi lạm phát lệch khỏi mức mục tiêu, mặc dù phương trình của Fisher và nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng lượng cung tiền và lạm phát có mối tương quan chặt chẽ (Romer, 2000; Walsh,2003). Để khắc phục hạn chế này Danfeng Kong (2008) đã đưa ra mô hình kết hợp giữa tốc độ tăng tiền cơ sở, độ lệch lạm phát và độ lệch sản lượng như sau:

            Trong đó, : tốc độ tăng của lượng tiền cơ sở.

            Quy tắc này cho biết cách thức điều chỉnh tốc độ tăng lượng tiền cơ sở khi lạm phát và tốc độ tăng GDP danh nghĩa lệch khỏi mức mục tiêu. Cụ thể, khi tốc độ tăng GDP danh nghĩa thấp hơn mức mục tiêu (hoặc khi tỷ lệ lạm phát nhỏ hơn mức mục tiêu) thì NHTW nên tăng lượng tiền cơ sở và ngược lại. 

2.4.2. Mô hình kết hợp giữa tốc độ tăng tiền cơ sở, độ lệch lạm phát, độ lệch sản lượng và độ lệch tỷ giá hối đoái

            Khi tính đến tác động của yếu tố tỷ giá đến việc điều hành CSTT, Mehrotra và Sánchez-Fung (2010) đưa ra mô hình kết hợp giữa tốc độ tăng tiền cơ sở, độ lệch lạm phát, độ lệch sản lượng và độ lệch TGHĐ như sau:

            Trong đó:

            y: độ lệch của sản lượng thực tế so với mức tiềm năng

            : độ lệch của TGHĐ thực tế so với xu hướng của nó

2.5. Quy tắc lạm phát mục tiêu

            Quy tắc lạm phát mục tiêu (LPMT) là quy tắc phổ biến trong các nghiên cứu và các quyết định thực thi CSTT trong thực tế. Mong muốn hướng tới LPMT đã được hình thành trong nghiên cứu kinh tế vĩ mô từ cuối những năm 1970 và đầu 1980, khi niềm tin vào hệ thống kinh tế vĩ mô theo lý thuyết Keynes sụp đổ do lạm phát tăng trong khi nền kinh tế bị suy thoái (hiện tượng lạm phát đình đốn). Các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là các nhà hoạch định CSTT bắt đầu tin rằng CSTT không nên tác động vào nền kinh tế tại thời điểm hiện tại, thay vào đó nên tập trung ổn định biến danh nghĩa. Đó là tỷ lệ lạm phát, đây là biến số tác động trực tiếp tới kỳ vọng của mọi người. Có như vậy mới thúc đẩy được hoạt động của nền kinh tế.

            Cơ chế của chính sách hướng tới LPMT tương đối đơn giản, giả sử các nhà hoạch định CSTT muốn hướng tới mục tiêu lạm phát là π thì họ nên tăng cung tiền với tốc độ π cộng với tốc độ tăng của thu nhập thực tế và trừ đi mức tăng của tốc độ chu chuyển tiền tệ.

∆M = π + Y - V

            Quy tắc LPMT khá giống quy tắc của Friedman và McCallum vì nó chỉ rõ lượng cung tiền cần phải điều chỉnh bao nhiêu để đạt được các mục tiêu. Trong quy tắc k% của Friedman và quy tắc McCallum đều cho tỷ lệ lạm phát bằng 0%. Do vậy, hai quy tắc này có thể được gọi là quy tắc hướng tới mục tiêu lạm phát bằng 0%.

3. Thực tiễn vận dụng quy tắc trong điều hành CSTT của một số NHTW trên thế giới

            Như đã giới thiệu ở trên, có nhiều quy tắc trong điều hành CSTT song việc vận dụng quy tắc nào làm định hướng khi thực thi CSTT ở mỗi nước lại tùy thuộc vào điều kiện của nước đó. Ví dụ, NHTW của Mỹ là trường hợp điển hình về việc vận dụng quy tắc Taylor đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế và tốc độ lưu thông tiền tệ tương đối ổn định. Tuy nhiên, khi nền kinh tế bất ổn hoặc khủng hoảng, tốc độ lưu thông tiền tệ có thể biến động mạnh thì quy tắc Taylor không còn phù hợp nữa, lúc này những định hướng về GDP danh nghĩa theo nguyên tắc McCallum có hiệu quả hơn. Nhật Bản là ví dụ tiêu biểu cho tình huống này.

            Bên cạnh đó, khi nền kinh tế có sự thay đổi trong thể chế và cấu trúc thì việc vận dụng các quy tắc cũng cần có sự thay đổi. Chẳng hạn đối với Nga, khi nền kinh tế chuyển dần từ trạng thái thị trường tài chính chưa phát triển, TGHĐ còn kém linh hoạt sang thị trường tài chính phát triển hơn, TGHĐ thả nổi và nền kinh tế có nhiều cải tổ thì việc điều hành CSTT của NHTW cũng chuyển dần từ định hướng theo quy tắc McCallum sang quy tắc Taylor.

            Ngoài ra, khi nền kinh tế đối mặt với lạm phát cao và kéo dài, để kiểm soát lạm phát cũng như neo kỳ vọng lạm phát ở mức thấp nhằm ổn định giá cả và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn thì chính sách LPMT sẽ là sự lựa chọn hợp lý. Chile là một trong những nước tiêu biểu thực hiện thành công chính sách LPMT. Chính sách này không những giúp họ kiểm soát được tình trạng lạm phát cao trong nhiều năm mà còn giúp đưa nền kinh tế từ nước có thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bình thấp so với khu vực Mỹ Latin trở thành thị trường mới nổi phát triển bậc nhất khu vực.

            Phần dưới đây sẽ trình bày cụ thể hơn về việc vận dụng các quy tắc trong điều hành CSTT của NHTW các nước tiêu biểu như đã nói ở trên.

3.1. NHTW Mỹ (Fed)

            Quy tắc Taylor ra đời trùng với thời điểm có sự thay đổi trong cách thức điều hành CSTT của Fed. Cụ thể, trước năm 1987, Fed sử dụng mục tiêu cung tiền hẹp (M1) trong điều hành CSTT. Từ năm 1987 – 1993, Fed chấm dứt sử dụng mục tiêu cung tiền M1 và chuyển sang mục tiêu cung tiền rộng hơn là M2 và M3 (Friedman và Kuttner, 1996). Từ năm 1994 đến nay Fed đã chọn lãi suất cơ bản (FFR: Fed Fund Rate, là mức lãi suất của các khoản vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu về dự trữ bắt buộc) làm lãi suất điều hành.

            Mặc dù được Taylor công bố từ năm 1993 nhưng đến năm 1995 quy tắc của ông mới được đề cập đến lần đầu tiên trong cuộc họp của Ủy ban thị trưởng mở của Fed (FOMC) diễn ra từ ngày 31/01 đến 01/02/1995. Tại cuộc họp này một thành viên của FOMC, bà Janet Yellen, đã mô tả công thức và cho rằng nó phản ánh khá đúng các quyết định lãi suất của FOMC kể từ năm 1986. Trong các cuộc họp sau này, bà Yellen luôn lặp lại rằng quy tắc Taylor là kim chỉ nam cho các quan điểm của bà về lập trường của CSTT. Các thành viên khác của FOMC thời kỳ đó là Laurence Meyer, Edward Gramlich, Robert Parry,… cũng rất tin tưởng vào quy tắc Taylor (Asso, Kahn và Leeson 2010).

Quy tắc Taylor gốc được Taylor (1993) đề xuất cho trường hợp của Mỹ có dạng phương trình sau:

it = πt + 2 + 0,5(πt – 2) + 0,5(yt)

            Trong đó:

            i: Lãi suất cơ bản của Fed (Fed Fund Rate – FFR)

            r = 2%: lãi suất thực cân bằng

            πt: Tỉ lệ lạm phát bình quân qua 4 quý liên tiếp (Judd và Rudebusch, 1998)

            π* = 2%: Tỉ lệ LPMT dài hạn.

            α = β = 0,5

            Sau khi quy tắc Taylor ra đời có rất nhiều nhà kinh tế học đã sử dụng nó để kiểm định cách thức điều hành CSTT của Fed trong quá khứ, có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu sau: Dưới góc nhìn của quy tắc Taylor cho trường hợp của Mỹ, Orphanides (2003) cho rằng CSTT của Fed trong khoảng thời gian từ thập niên 1920 đến 1960 dường như phù hợp với khuôn khổ quy tắc Taylor.

Hình 1. Lãi suất cơ bản của Fed và lãi suất Taylor

Nguồn: Orphanides, 2003.

Trong các thập niên tiếp theo, từ 1970 đến 1997, kết quả nghiên cứu của Judd và Rudebusch (1998) cũng cho thấy thấy lãi suất điều hành của Fed biến động khá cùng chiều với lãi suất Taylor. Xem xét cụ thể hơn thì dưới thời chủ tịch Arthur Burns (quý 1/1970 – quý 1/1978), lãi suất của Fed liên tục thấp hơn lãi suất Taylor khiến lạm phát trong thời kỳ này tăng cao. Dưới thời chủ tịch Paul Volcker (quý 3/1979 – quý 2/1987), với trọng tâm là kiềm chế lạm phát, Fed đã luôn duy trì lãi suất cao hơn lãi suất Taylor. Đến thời chủ tịch Alan Greenspan (quý 3/1987- 2003), lãi suất điều hành gần với lãi suất Taylor hơn. Đặc biệt, trong giai đoạn 1987 – 1992, lãi suất cơ bản bám rất sát với lãi suất Taylor (Taylor, 1993a, 202-203). Do đó, độ biến động của lạm phát và tăng trưởng kinh tế của Mỹ thời chủ tịch Alan Greenspan cũng thấp hơn các thời kỳ trước.

Hình 2. Lãi suất điều hành của Fed so với lãi suất theo quy tắc Taylor

giai đoạn 1970 - 1998

Nguồn: Judd and Rudebusch, 1998

            Đến 2008, Taylor đã bổ sung thêm một loạt các yếu tố khác vào mô hình như: các mô hình cấu trúc, các điều kiện của thị trường tài chính,…Với mô hình điều chỉnh này, Taylor cho rằng trong giai đoạn 1993 – 2003, Fed cũng vận dụng quy tắc Taylor điều chỉnh như đã từng vận dụng quy tắc Taylor cổ điển năm 1993 trong các giai đoạn trước. Tuy nhiên, từ 2003 – 2006, các nhà hoạch định CSTT của Mỹ đã không tuân thủ các quy tắc Taylor nữa, lãi suất của Fed thấp hơn nhiều so với lãi suất Taylor gợi ý. Vì vậy, Taylor đã phê phán chính việc không sử dụng quy tắc đã góp phần tạo nên sự tăng vọt trong nhu cầu nhà ở và gây sức ép tăng giá nhà trong suốt giai đoạn này. Ông cho rằng nếu các nhà hoạch định chính sách tuân thủ quy tắc Taylor thì cuộc bùng nổ và sụp đổ của thị trường tài chính hoàn toàn có thể sẽ tránh được. Và nếu nó có xảy ra thì hậu quả cũng sẽ không trở nên quá trầm trọng (Taylor, 2012).

            Khẳng định của Taylor ở trên khá giống với nghiên cứu của Bernanke năm 2015. Vận dụng quy tắc Taylor nguyên bản, Bernanke đã kiểm định việc điều hành lãi suất của Fed giai đoạn 1993 – 2015. Kết quả cho thấy trong giai đoạn từ 2003 – 2007 và từ 2011 – 2015 lãi suất của Fed luôn thấp hơn lãi suất Taylor. Điều đó cho thấy Fed đã thực hiện CSTT quá lới lỏng trong các giai đoạn đó.

Hình 3. Lãi suất điều hành của Fed so với lãi suất theo quy tắc Taylor nguyên bản giai đoạn 1993 - 2015

Nguồn: Ben S. Bernanke, 2015.

            Ngoài sử dụng quy tắc Taylor nguyên bản, Bernanke còn sử dụng quy tắc Taylor điều chỉnh với việc sử dụng chỉ số giá tiêu dùng cá nhân (Personal Consumption Expenditures – PCE) thay cho chỉ số điều chỉnh GDP (GDP Deflator) và nâng hệ số phản ứng của lãi suất trước độ lệch của sản lượng từ β = 0,5 lên β =1,0.

Hình 4. Lãi suất điều hành của Fed so với lãi suất theo quy tắc Taylor điều chỉnh

giai đoạn 1993 - 2015

Nguồn: Ben S. Bernanke, 2015.

            So sánh kết quả ở Hình 3 và Hình 4 có thể thấy, trong điều kiện bình thường lãi suất theo quy tắc Taylor điều chỉnh sát với lãi suất điều hành của Fed hơn. Điều đó có nghĩa là lãi suất theo quy tắc Taylor có thể là một chỉ số tham khảo tốt cho các nhà hoạch định CSTT. Tuy nhiên, khi xảy ra khủng hoảng, mức chênh lệch giữa hai loại lãi suất này trở lên lớn hơn, do vậy, sự chỉ dẫn theo quy tắc Taylor không còn phù hợp nữa. Cụ thể, theo Hình 4, nếu theo nguyên tắc Taylor điều chỉnh, sau khi xảy ra khủng hoảng tài chính, lãi suất cơ bản cần phải giữ ở dưới mức 0% (mức thấp nhất là - 5%). Song do Fed quan ngại về rủi ro hạ lãi suất danh nghĩa dưới mức 0% nên Fed đã sử dụng các công cụ tiền tệ phi truyền thống như can thiệp trực tiếp vào thị trường tín dụng bằng các chính sách nởi lỏng định lượng cũng như định hướng thị trường để kích thích nền kinh tế. Còn nếu tuân theo quy tắc Taylor truyền thống như ở Hình 3 thì lãi suất đề xuất chỉ nên ở gần mức 0%, điều đó có nghĩa là việc sử dụng các CSTT phi truyền thống là không cần thiết.

Tuy vậy, kết quả thực tế của nền kinh tế Mỹ đã chứng minh cho điều ngược lại.  Fed đã thành công khi sử dụng công cụ tiền tệ phi truyền thống: Khu vực nhà đất và thị trường tài chính được phục hồi, thất nghiệp đã trở về mức ban đầu, chi tiêu cá nhân, đầu tư và mở rộng sản xuất của khu vực tư nhân, xuất khẩu,…liên tục tăng lên, vượt cả thời kỳ tiền khủng hoảng. Như vậy Fed đã đúng đắn khi không vận dụng quy tắc Taylor trong điều kiện nền kinh tế xảy ra khủng hoảng, thay vào đó là sử dụng CSTT phi truyền thống để khắc phục hậu quả của nó.

3.2. NHTW Nhật Bản (BOJ)

            Trên thực tế, BOJ chưa lần nào đưa ra thông báo chính thức về việc có áp dụng hay không áp dụng các quy tắc trong điều hành CSTT, nhưng căn cứ vào ý nghĩa cũng như những giá trị về mặt định hướng, các nhà kinh tế học đã rất quan tâm và thực hiện khá nhiều nghiên cứu về tính hiệu quả của các nguyên tắc trong trường hợp Nhật Bản (Vũ Hải Yến, 2015). Trong đó, có thể kể đến hai nghiên cứu tiêu biểu là của McCallum (2001), Alan Ahearne và cộng sự (2002).      

Thực hiện ước tính mức lãi suất cho vay qua đêm của NHTW Nhật Bản (BOJ) theo quy tắc Taylor và lãi suất trên thực tế, McCallum (2001) đã kiểm định việc sử dụng nguyên tắc này ở Nhật Bản từ năm 1972 – 1998. Quy tắc Taylor gốc được ông sử dụng cho trường hợp Nhật Bản được thể hiện dưới dạng phương trình sau:

            Trong đó:

               là lãi suất cho vay qua đêm không đảm bảo (the overnight call-money rate) và cũng là mục tiêu hoạt động của BOJ

            r = 3%: lãi suất thực cân bằng

            : tỷ lệ lạm phát bình quân (chỉ số giảm phát GDP) của năm trước        

             = 2%: tỷ lệ LPMT dài hạn.

              : tốc độ tăng của GDP thực

            : tốc độ tăng của GDP tiềm năng.

            Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhìn chung, lãi suất điều hành thực tế của BOJ biến động cùng chiều với lãi suất theo quy tắc Taylor. Điều này chứng tỏ nguyên tắc Taylor có khả năng đưa ra những gợi ý phù hợp cho NHTW Nhật Bản. Tuy nhiên, kết quả cũng chỉ ra rằng phần lớn thời gian là lãi suất trên thực tế cao hơn mức lãi suất theo quy tắc Taylor, thậm chí có những giai đoạn 1995 – 1997, lãi suất theo quy tắc Taylor còn thấp hơn mức 0%. Điều này có vẻ không khả thi trong thực tế. Song hàm ý theo quy tắc này là BOJ nên thực hiện CSTT nới lỏng. Và trên thực tế thì đến năm 1999, sau nhiều lần cắt giảm lãi suất nhằm kích thích nền kinh tế, BOJ đã quyết định đưa ra mức lãi suất chiết khấu và cho vay qua đêm xuống mức 0%.     

Hình 5. Lãi suất cho vay qua đêm của BOJ và lãi suất theo quy tắc Taylor

giai đoạn 1970 - 1998

Nguồn: Bennett T. McCallum, 2001.

            Một nghiên cứu khác cũng so sánh về hành vi điều hành lãi suất của BOJ với lãi suất theo quy tắc Taylor nhưng trong giai đoạn ngắn hơn (1990 – 1995) là của Alan Ahearne và các cộng sự (2002). Ông đã sử dụng lãi suất Taylor điều chỉnh (Revised Taylor rule - được tính toán dựa trên số liệu lạm phát hiện tại và dự tính chênh lệch sản lượng hiện tại) và lãi suất Taylor theo thời gian thực (Real time Taylor rule - được tính toán trên cơ sở dự đoán về lạm phát và chênh lệch sản lượng của mỗi quý) để đối chiếu với lãi suất qua đêm của BOJ. Với hai cách tính toán đó sẽ đi đến hai kết luận hoàn toàn trái ngược:

  • Nếu dựa vào số liệu thực đã xảy ra (hay là căn cứ vào lãi suất Taylor đã được điều chỉnh) có thể thấy là mức lãi suất Taylor điều chỉnh thấp hơn so với lãi suất thực tế của BOJ trong suốt giai đoạn 1990 đến 1995. Điều đó chứng tỏ Nhật Bản đã thực thi CSTT quá chặt trong thời gian đó.
  • Nếu căn cứ vào số liệu dự đoán (hay căn cứ vào lãi suất Taylor theo thời gian thực) thì mức lãi suất Taylor lại cao hơn so với mức lãi suất điều hành thực tế trong phần lớn thời gian nghiên cứu (1990 - 1994). Nghĩa là trong giai đoạn này, CSTT của BOJ là quá lỏng.

            Sở dĩ có sự khác biệt về kết quả này là lạm phát thực tế thấp hơn so với dự tính trong những năm đầu của thập niên 1990. Do vậy, lãi suất Taylor điều chỉnh thấp hơn so với lãi suất Taylor theo thời gian thực. Và thực tế, giai đoạn 1990 – 1995 là giai đoạn nền kinh tế sau khủng hoảng bong bóng tài sản, chính phủ và NHTW Nhật Bản đã tìm mọi cách để khôi phục sản xuất. Vì vậy, CSTT nới lỏng được ưu tiên thực hiện nhằm kích thích nền kinh tế là hợp lý.

Hình 6. Lãi suất cho vay qua đêm của BOJ và lãi suất theo quy tắc Taylor

giai đoạn 1990 – 1995

Nguồn: Alan Ahearne et al., 2002.

            Nếu so sánh lãi suất Taylor trong nghiên cứu của McCallum và lãi suất Taylor điều chỉnh trong nghiên cứu của Alan Ahearne thì thấy kết quả tương đối giống nhau. Như vậy, dù chưa lần nào BOJ đưa ra thông báo chính thức về việc có hay không áp dụng quy tắc Taylor nhưng qua các kết quả nghiên cứu có thể thấy, trong điều kiện bình thường, nguyên tắc Taylor là một chỉ số tham khảo tốt cho NHTW Nhật Bản.

            Ngoài vận dụng quy tắc Taylor để nghiên cứu việc sử dụng CSTT của NHTW Nhật Bản trong giai đoạn 1972 – 1998, McCallum (2001) còn sử dụng quy tắc McCallum để đối chiếu. Hàm tiền cơ sở trong mối quan hệ với tốc độ lưu thông tiền tệ và GDP danh nghĩa được ông sử dụng cho trường hợp Nhật Bản như sau:

            Trong đó:

 là tốc độ tăng của tiền cơ sở

 là tốc độ tăng trung bình của vòng quay cơ sở tiền tệ trong 4 năm trước

 là mục tiêu tăng trưởng của GDP danh nghĩa đạt được trong điều kiện mục tiêu lạm phát là 2% và tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân trong dài hạn là 3%.

            Kết quả cho thấy, trong giai đoạn 1970 – 1980, tốc độ tăng trưởng tiền cơ sở của BOJ trên thực tế luôn cao hơn so với tốc độ được tính theo quy tắc McCallum. Ngược lại, từ năm 1990 – 1998, tốc độ tăng trưởng tiền cơ sở của BOJ trên thực tế luôn thấp hơn so với tốc độ được tính theo quy tắc McCallum. Điều đó cũng chứng minh rằng, BOJ đã áp dụng một CSTT quá chặt trong suốt thời gian này. Thực tế, trước đó 3 năm ông Nobuyuki Nakahara, thành viên trong Hội đồng CSTT của BOJ (Monetary Policy Board - MPB), đã đưa ra gợi ý là nên tăng lượng tiền cơ sở. Tuy nhiên, cho đến trước cuộc họp Hội đồng CSTT diễn ra vào năm 2001, MPB vẫn quyết định không tăng lượng tiền cơ sở. Họ cho rằng việc tăng thêm lượng tiền cơ sở vào lúc này không có tác động vào lãi suất danh nghĩa ngắn hạn khi nó đã ở gần mức 0%. Vì với mức lãi suất thấp như vậy, tiền cơ sở và các chứng khoán Chính phủ ngắn hạn gần như có thể thay thế hoàn hảo cho nhau. Nếu thế hoạt động can thiệp trên thị trường tài sản của BOJ thông qua việc mua các chứng khoán ngắn hạn gần như vô hiệu. Hay nói cách khác, nghiệp vụ mua chứng khoán trên thị trường mở của BOJ nhằm nới lỏng CSTT hoàn toàn không hiệu quả khi lãi suất gần mức 0% (McCallum, 2001).

Hình 7. Tăng trưởng tiền cơ sở theo quy tắc McCallum và trên thực tế tại Nhật Bản giai đoạn 1972 – 1999

Nguồn: Bennett T. McCallum, 2001.

            Xét một cách tổng thể, kết quả mà McCallum vận dụng quy tắc Taylor khá giống với kết quả khi ông vận dụng quy tắc McCallum. Tuy nhiên, trên thực tế, trong một số trường hợp đặc biệt, quy tắc Taylor chưa thực hợp lý, Chẳng hạn:

  • Giai đoạn 1973 – 1975: Nhật Bản chịu tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng dầu mỏ bởi họ vốn là quốc gia gần như phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn dầu lửa nhập khẩu. Khi giá dầu tăng cao đẩy nền kinh tế Nhật Bản rơi vào tình trạng lạm phát đình đốn (lạm phát tăng cao trong khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế suy giảm). Để giảm lạm phát BOJ đã thực hiện tăng lãi suất lến 15%. Song nếu theo quy tắc Taylor thì NHTW nên tăng lãi suất lên tới 30%. Con số này được cho là quá cao và không hợp lý.
  • Giai đoạn 1990 – 2000: nền kinh tế Nhật Bản trải qua suy thoái kéo dài do bong bóng tài sản đổ vỡ đầu những năm 1990. BOJ liên tục phải thực hiện giảm lãi suất nhằm kích thích nền kinh tế, thậm chí lãi suất đã ở mức 0% vào tháng 2 năm 1999. Nếu vận dụng quy tắc Taylor thì BOJ nên thực hiện lãi suất âm. Tuy nhiên, BOJ không thể giảm lãi suất hơn nữa, công cụ lãi suất cũng như quy tắc Taylor đã trở nên vô hiệu. Trong trường hợp này quy tắc McCallum tỏ ra hiệu quả hơn. Và thực tế, kể từ năm 2001, BOJ đã phải sử dụng một số biện pháp tiền tệ phi truyền thống để tăng tổng phương tiện thanh toán, kích thích đầu tư và tiêu dùng, đưa nền kinh tế thoát khỏi suy thoái và giảm phát.

3.3. NHTW Nga (CBR)

            Sau khi Liên Xô tan dã vào cuối năm 1991, cơ quan hoạch định và thực thi CSTT của Liên Xô là NHTW liên bang trở thành NHTW Nga (CRB), có chức năng hoạch định và thực thi CSTT một cách độc lập. Thời kỳ này, nền kinh tế nước Nga trải qua sự suy giảm các biến số vĩ mô trầm trọng cũng như sự thay đổi cấu trúc sâu sắc. Khi nền kinh tế còn chưa kịp phục hồi thì cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á năm 1997 – 1998 tiếp tục nhấn chìm nền kinh tế. Để ứng phó với những cú sốc đó, NHTW đã thực hiện đồng thời nhiều biện pháp. Do vậy, muốn nghiên cứu xem liệu CRB có vận dụng quy tắc CSTT nào hay không thật không dễ dàng và không thể chỉ sử dụng một quy tắc đơn giản.

Năm 2004, Esanov và các cộng sự đã sử dụng cả 3 quy tắc: quy tắc Taylor mở rộng, quy tắc Taylor hỗn hợp và quy tắc McCallum để xem xét cách thức vận hành CSTT của CRB trong giai đoạn 1993 – 2002. Trong đó:

  • Quy tắc Taylor mở rộng được Esanov và các cộng sự nghiên cứu có dạng sau:

            Trong đó:

            ∆reer (real effective exchange rate): tốc độ thay đổi của TGHĐ thực

            α1, α2, α3, α4, α5: hệ số phản ứng của chính sách. Với α0, α2, α5> 0, α1/(1- α5)>1 và α3, α4 <0.

  • Quy tắc quy tắc Taylor hỗn hợp được Esanov và các cộng sự đưa ra dựa trên nghiên cứu của Ball (1998) có dạng:

            Trong đó:

            w: trọng số, phụ thuộc vào quy mô của mô hình

            : phản ánh tác động của 1% biến động TGHĐ đến lạm phát

  • Quy tắc McCallum mà Esanov và các cộng sự sử dụng có dạng sau:

            Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng quy tắc Taylor mở rộng và hỗn hợp không phù hợp với quá trình điều hành CSTT của CBR. Trong khi đó, kết quả cho thấy trong giai đoạn 1992 – 2002, CBR sử dụng lượng cung tiền như là công cụ chính trong điều hành CSTT, điều này hàm ý CBR đã vận dụng quy tắc McCallum.

            Tuy nhiên, kết luận này hoàn toàn trái ngược với kết luận trong nghiên cứu mới đây của Korhonen và Nuutilainen (2017). Sử dụng dữ liệu từ năm 2004 – 2017, Korhonen và Nuutilainen đã xem xét việc vận dụng quy tắc Taylor và quy tắc McCallum mở rộng của NHTW Nga với việc bổ sung yếu tố TGHĐ và giá dầu vào các quy tắc gốc. Cụ thể:

  • Quy tắc Taylor mở rộng được Korhonen và Nuutilainen sử dụng có dạng sau:

            Trong đó:

            reer (real effective exchange rate): độ lệch TGHĐ thực

            oil: độ lệch giá dầu

            α1, α2, α3, α4, α5: hệ số phản ứng của chính sách. Với α1, α2, α4, α5    > 0 và α3<0.

            α6: phản ánh mức độ ổn định của chính sách (strength of policy smoothing)

  • Quy tắc McCallum mở rộng được Korhonen và Nuutilainen nghiên cứu có dạng sau:

            Trong đó:

            ∆B: tốc độ tăng cung tiền M0

            neer (nominal effective exchange rate): độ lệch TGHĐ danh nghĩa

            oil: độ lệch giá dầu

            β1, β2, β3, β4: hệ số phản ứng của chính sách. Với β1, β3, β4> 0 và β2 <0.

            β5: phản ánh tính quán tính của chính sách (policy inertia)

            Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong giai đoạn 2004 – 2017, quy tắc McCallum không còn phù hợp với việc điều hành CSTT nữa nhưng quy tắc Taylor mở rộng phản ánh khá chính xác cách thức điều hành CSTT của CBR. Các nhà hoạch định CSTT của Nga đã điều chỉnh lãi suất để đạt mục tiêu ổn định cả lạm phát và sản lượng. Kết quả cũng cho biết mức độ nhạy cảm của lãi suất trước sự biến động của TGHĐ và giá dầu.

            Vậy điều gì dẫn đến các kết luận hoàn toàn trái ngược? Thực tế, có một số lý do dẫn đến sự khác biệt này. Trước đây, thị trường tài chính của Nga chưa phát triển và chế độ tỷ giá kém linh hoạt (cụ thể, từ tháng 7/1995 – 1998, Nga vẫn theo đuổi chế độ TGHĐ cố định có điều chỉnh biên độ, từ 1998 – 2014, Nga chuyển sang chế độ TGHĐ thả nổi nhưng chưa hoàn toàn và kể từ 2015 trở đi, tỷ giá đã được thả nổi hoàn toàn). Còn hiện nay, Nga là một trong những thị trường mới nổi lớn nhất thuộc nhóm các nước G20, với thị trường tài chính tương đối phát triển, NHTW đã có nhiều cải tổ để hướng về mục tiêu lạm phát và ổn định sản lượng. Bên cạnh đó, xuất khẩu dầu thô, các sản phẩm chế xuất từ dầu mỏ và khí tự nhiên chiếm phần lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Do vậy, sự biến động của giá dầu cũng như TGHĐ sẽ ảnh hưởng đền việc điều hành CSTT của NHTW Nga.

3.4. NHTW Chile

Trước khi áp dụng chính sách LPMT, tỷ lệ lạm phát của Chile luôn rất cao. Cụ thể, tỷ lệ lạm phát tăng vọt từ 20,06% năm 1971 lên đến 504,73% vào năm 1974, đây cũng là mức lạm phát cao nhất trong lịch sử của Chile. Tỷ lệ lạm phát đã giảm dần ở các năm sau đó nhưng vẫn giữ ở mức 2 con số trong giai đoạn cuối của những năm 1970 và các năm 1980.

Vào đầu những năm 1990, một xu hướng mới trong việc điều hành CSTT được hình thành, hàng loạt quốc gia công nghiệp tiên tiến cũng như thị trường mới nổi chuyển sang áp dụng chính sách LPMT. Chile là quốc gia thứ hai (sau New Zealand) chuyển sang khuôn khổ chính sách này. Do chưa có nhiều bài học từ các nước đi trước nên trong quá trình thực hiện Chile vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Thay vì lựa chọn chuyển đổi nhanh sang cơ chế LPMT, Chile đã lựa chọn phương thức chuyển đổi từ từ. Mặc dù chính thức tuyên bố chuyển đổi sang chính sách LPMT từ tháng 9/1990 nhưng đến tháng 9/1999 nước này mới áp dụng chính sách LPMT hoàn toàn. Cụ thể:

  1. Giai đoạn 1 (9/1990-9/1999)

            Chile áp dụng chính sách LPMT nhưng chưa có khuôn khổ hoàn chỉnh: chưa có dự báo, báo cáo lạm phát và chưa cam kết mạnh với dân chúng về mức lạm phát. Trong giai đoạn này, NHTW Chile đã xây dựng những điều kiện để từng bước thiết lập chính sách LPMT hoàn chỉnh như: trao quyền độc lập cho NHTW và quyền theo đuổi mục tiêu lạm phát là mục tiêu chính, thiết lập các quy định về giám sát và quản lý hoạt động ngân hàng, chuẩn bị ngân sách nhà nước đủ mạnh và cải thiện hệ thống tài chính, chuyển từ chế độ TGHĐ cố định sang thả nổi có quản lý với biên độ ngày càng nới lỏng,…Bên cạnh đó, NHTW Chile cũng theo đuổi cách tiếp cận dần dần để giảm tỷ lệ LPMT. Khi tỷ lệ LPMT được công bố vào tháng 9/1990, NHTW giải thích đây là tỷ lệ lạm phát kế hoạch cần cố gắng để đạt được chứ không công bố đây là tỷ lệ lạm phát phải đạt được. Chỉ đến khi NHTW đạt được những thành công về giảm tỷ lệ lạm phát và đạt được những mục tiêu thì họ mới nhấn mạnh cần phải đạt được tỷ lệ lạm phát này.

            Kết quả là Chile đã giảm lạm phát thực tế từ mức lạm phát cao (26% vào năm 1990) đến mức lạm phát thấp và ổn định (3,3% vào năm 1999). Chỉ số LPMT trung bình mỗi năm giảm 1,5%. Lạm phát thực tế không còn biến động mạnh như trước khi thực hiện chính sách LPMT mà có xu hướng giảm dần qua từng năm và rất sát với mức LPMT. Trong những năm lạm phát thực tế nằm ngoài biên độ LPMT thì khoảng cách giữa 2 chỉ số cũng không quá xa.

Hình 8. Lạm phát thực tế và lạm phát mục tiêu tại Chile (1985-1999)

Đơn vị: %

Nguồn: Rodrigo Valdés, 2007

  1. Giai đoạn 2 (9/1999-nay)

            Chile chính thức thông qua hệ thống LPMT đầy đủ và có nhiều thay đổi quan trọng trong CSTT, trong đó, thay đổi quan trọng nhất là Chile chuyển sang áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi. Bên cạnh đó, NHTW thông báo cụ thể về mức LPMT. Ví dụ, mục tiêu lạm phát cho năm 2000 là 3,5% và giai đoạn 2001 – 2006 là từ 2% - 4%, thời gian thực hiện chính sách là từ 12 đến 24 tháng. Năm 2007, nhằm làm cho toàn bộ khuôn khổ CSTT minh bạch hơn, NHTW Chile đã công bố một tài liệu mới. Tài liệu này xác định lại một cách rõ nét và tinh tế về mục tiêu lạm phát (mục tiêu được xác định lại là giữ lạm phát hàng năm ở mức 3% ±1%). Bên cạnh đó, tài liệu còn miêu tả đầy đủ cách thức tiến hành, cơ chế truyền dẫn của CSTT và thực hiện truyền thông về CSTT.

            Ngoài ra, ở giai đoạn thứ 2 này, NHTW đã bắt đầu xuất bản một báo cáo lạm phát 3 lần/năm vào các tháng 1, 5 và 9 (lần đầu là tháng 5/2000). Đến năm 2009 báo cáo lạm phát được tăng lên thành 4 lần/năm (vào các tháng 3, 6, 9 và 12). Thông tin về các cuộc họp CSTT hàng tháng cũng được NHTW công bố vào ngày 6 của tháng trước. Các biên bản cuộc họp CSTT được công bố sau 3 tháng, sau này rút ngắn xuống chỉ còn sau 3 tuần. Nhìn chung, NHTW đã có sự cải thiện đáng kể trong việc công bố thông tin, bao gồm dự báo chi tiết và quan điểm về cơ chế truyền dẫn.

            Kết quả là, từ năm 2000 – 2007, lạm phát hàng năm đạt trung bình 2,8%, phần lớn thời gian tỷ lệ lạm phát thực tế nằm trong khoảng 2% - 4%. Năm 2008 - 2009, do tác động của cuộc khủng hoảng, kinh tế Chile cũng gặp nhiều tổn thất, lạm phát tăng lên đến 8,72% vào năm 2008 nhưng sau đó nền kinh tế đối mặt với giảm phát vào 2009. Từ năm 2010, kinh tế Chile dần hồi phục, lạm phát thực tế ổn định quanh mức mục tiêu.

            Hình 9. Lạm phát thực tế và lạm phát mục tiêu của Chile giai đoạn 2000-2017

Đơn vị: %

Nguồn: Ngân hàng trung ương Chile

Nhờ thành công trong việc giảm tỷ lệ lạm phát và duy trì mức lạm phát thực tế ở gần mức mục tiêu nên mức lạm phát kỳ vọng (đặc biệt là mức lạm phát kỳ vọng cho 2 năm sau) sát với ngưỡng mà NHTW mong đợi. Như vậy có thể thấy, công chúng đặt niềm tin lớn vào NHTW trong việc kiểm soát lạm phát. Điều này sẽ giúp giảm bớt chi phí và tổn thất cho nền kinh tế khi thực hiện các chính sách kiểm soát lạm phát trong tương lai.

            Hình 10. Lạm phát mục tiêu và lạm phát kỳ vọng của Chile

giai đoạn 2001-2016

Đơn vị: %

Nguồn: Naudon và Joaquín, 2016

Như vậy, chính sách LPMT của Chile được coi là khá thành công, nó đã giúp Chile kiểm soát được lạm phát và ổn định nền kinh tế. Từ một quốc gia có lạm phát trung bình trên 20% những năm 1980, lạm phát của Chile đã giảm xuống quanh mức 3%, kinh tế tăng trưởng cao trong nhiều năm, đưa Chile từ một nước thị trường mới nổi trở thành nước phát triển bậc nhất khu vực Nam Mỹ.

4. Bài học khi áp dụng các quy tắc trong điều hành CSTT

            Từ những nghiên cứu thực tiễn về việc vận dụng quy tắc CSTT của một số nước trên thế giới có thể thấy các NHTW có thể vận dụng các quy tắc làm định hướng trong quá trình điều hành CSTT. Và việc lựa chọn quy tắc nào phụ thuộc rất nhiều vào khả năng đo lường chính xác các biến số kinh tế vĩ mô cũng như điều kiện và chi phí khi áp dụng các quy tắc. Dưới đây là những lưu ý khi NHTW lựa chọn các quy tắc.

4.1. Đối với quy tắc k%

Quy tắc của Friedman là một quy tắc đơn giản, dễ áp dụng. Tuy nhiên, quy tắc này chỉ nên áp dụng trong giai đoạn nền kinh tế phát triển ổn định, ở trạng thái nguồn lực được sử dụng hiệu quả và quá trình điều chỉnh của thị trường nhanh. Bởi hiệu quả của nó trong việc ổn định tổng cầu và kinh tế trong ngắn hạn phụ thuộc vào tính ổn định của hai biến số thu nhập (Y) và tốc độ chu chuyển tiền tệ (V). Vào thời điểm Friedman đưa ra quy tắc này, tốc độ chu chuyển tiền tệ tương đối ổn định. Song thực tế lịch sử cho thấy, cả hai biến số này đều bị biến động. Khi áp dụng quy tắc Friedman trong điều kiện nền kinh tế có tốc độ chu chuyển tiền tệ biến động thì các nguồn lực sẽ được phân bổ không hợp lí.

Ví dụ, khi tốc độ chu chuyển tiền tệ đột ngột giảm, kết quả sẽ là tiền sẽ quay vòng chậm hơn, nếu áp dụng nguyên tắc của Friedman thì tiền không có đủ cho các giao dịch trong nền kinh tế. Điều này khiến kinh tế rơi vào tình trạng suy giảm tạm thời do sự khan hiếm của tiền làm giảm tổng cầu của nền kinh tế, sản lượng, việc làm và mức giá đều giảm. Mặc dù sản lượng và việc làm là các biến số thực tế sẽ dần dần quay về mức tự nhiên trong dài hạn, tuy nhiên tình trạng suy thoái vẫn tồn tại một khoảng thời gian. Do vậy, các nhà kinh tế tin rằng tốc độ tăng cung tiền cần phải được điều chỉnh linh hoạt, chứ không nên cố định, để trung hòa các cú sốc đó. Chính vì hạn chế này khiến cho quy tắc k% ít được vận dụng trong thực tế.

4.2. Đối với quy tắc Taylor

Quy tắc Taylor khá cụ thể (Mansour Samia, 2009) bởi nó coi lãi suất mục tiêu ngắn hạn là công cụ của CSTT. Thay vì điều chỉnh mục tiêu cung tiền mở rộng, quy tắc này có thể cho NHTW biết cách hành động với mức lãi suất ngắn hạn để phản ứng trước những điều kiện kinh tế thay đổi nhằm đạt được mục tiêu kép là ổn định kinh tế trong ngắn hạn và kiểm soát lạm phát trong dài hạn (Kahn, 2010). Bên cạnh đó, quy tắc này cũng rất linh hoạt. Trong quy tắc, trọng số của lạm phát và sản lượng có thể điều chỉnh linh hoạt để phù hợp với mục tiêu trọng tâm của NHTW trong từng thời kỳ là ưu tiên lạm phát hay tăng trưởng hơn.

Ngoài ra, quy tắc Taylor còn khá đơn giản và dễ hiểu nên giúp NHTW tăng cường khả năng giải trình và gia tăng sự minh bạch của chính sách. Nó cũng giúp công chúng và những người tham gia thị trường tài chính có một công cụ ước lượng để dự báo được những động thái điều hành CSTT của NHTW (Kahn, 2010). Từ đó, tạo điều kiện để người dân hiểu hơn về những phản ứng chính sách của NHTW và đánh giá được mức độ cam kết chính sách của NHTW, vì vậy, nâng cao được niềm tin của dân chúng vào các chính sách.

Mặc dù vậy khi áp dụng quy tắc Taylor đòi hỏi phải có các dữ liệu liên quan tới tỷ lệ lạm phát thực tế, lãi suất thực tế cân bằng và chênh lệch sản lượng thực tế so với mức tiềm năng. Thực tiễn cho thấy các biến số này đều không thể tính toán trực tiếp được nên có thể sẽ dẫn tới sự không chính xác trong việc đặt ra mức lãi suất. Hơn nữa, không có tiêu chuẩn quốc tế nào để tính sản lượng tiềm năng, ngay cả tại nước Mỹ, cũng không có sự đồng nhất trong quan điểm tính sản lượng tiềm năng (Danfeng Kong, 2008). Một khi áp dụng các phương pháp tính toán khác nhau sẽ cho ra các kết quả khác nhau (Orphanides, 2001). Nếu NHTW dựa trên những thông tin không chính xác để đưa ra mức lãi suất không phù hợp sẽ dẫn đến việc điều tiết nền kinh tế không đạt được mục tiêu đề ra.

Từ những phân tích ở trên có thể thấy quy tắc Taylor nên được áp dụng khi mục tiêu về sản lượng và lạm phát được các quốc gia phân định rõ ràng, đồng thời nền kinh tế phải có những công cụ dự báo tốt về mức sản lượng tiềm năng. Ngoài ra, quy tắc Taylor cũng chỉ vận dụng được trong điều kiện nền kinh tế ổn định. Khi nền kinh tế xảy ra khủng hoảng, suy thoái hoặc rơi vào tình huống đặc biệt như tình trạng lãi suất tiệm cận mức 0% (the zero lower bound on interest rates – ZLB) thì quy tắc này không còn phù hợp nữa.

4.3. Đối với quy tắc McCallum

Nếu so với quy tắc k%, quy tắc McCallum khả thi hơn vì nó tính tới cả sự thay đổi của thu nhập và tốc độ chu chuyển tiền tệ. Còn so với quy tắc Taylor, quy tắc McCallum có lẽ tốn ít chi phí áp dụng hơn vì các biến số cần để thực hiện quy tắc McCallum (cung tiền, tốc độ chu chuyển tiền tệ và thu nhập danh nghĩa) dường như dễ đo lường hơn biến số trong quy tắc Taylor (thu nhập thực tế và lãi suất thực tế cân bằng) (Salter, 2014). Hơn nữa, quy tắc McCallum có thể vận dụng trong trường hợp nền kinh tế rơi vào tình trạng giảm phát hay thậm chí đối mặt với tình huống lãi suất tiệm cận mức 0% (Mehrotra, Aaron và José R. Sánchez-Fung, 2011).

Tuy nhiên, quy tắc McCallum cũng có những hạn chế nhất định trong quá trình áp dụng. Cụ thể, trong quy tắc, tăng trưởng tốc độ vòng quay của tiền được tính toán dựa trên giá trị bình quân lịch sử gần nhất với mục đích phản ánh biến đổi xu hướng dài hạn của vòng quay cung tiền cơ bản. Tuy nhiên, việc lựa chọn thời điểm nào để tính bình quân lịch sử (ví dụ tại sao là 16 quý thay vì 8 quý hay 24 quý) cũng như biến số này có phản ánh xu hướng dài hạn của vòng quay cung tiền cơ bản hay không là một câu hỏi còn nhiều vướng mắc. Bên cạnh đó, việc lựa chọn hệ số phản ứng của lượng tiền cơ sở trước sự thay đổi của thu nhập danh nghĩa so với mức mục tiêu rất quan trọng. Vì nếu đưa ra hệ số không phù hợp sẽ tác động rất lớn đến nền kinh tế. Ví dụ, với hệ số phản ứng lớn, quy tắc McCallum sẽ đưa ra CSTT dễ gây sốc cho nền kinh tế do hiệu ứng mạnh của việc điều chỉnh đột ngột lượng cung tiền cơ bản. Ngược lại, với hệ số phản ứng nhỏ thì quy tắc tương ứng sẽ khiến nền kinh tế phản ứng chậm với thay đổi thị trường, dẫn tới tình trạng khủng hoảng hoặc tăng trưởng nóng kéo dài.

Vậy để phát huy điểm mạnh của quy tắc McCallum, các NHTW nên áp dụng nó khi mục tiêu về sản lượng và lạm phát không cần phân định rõ ràng hoặc nền kinh tế chưa có được những công cụ dự báo tốt về các biến số vĩ mô. Quy tắc này cũng có thể sử dụng khi nền kinh tế có những sự thay đổi trong tốc độ chu chuyển tiền tệ và kém ổn định.

4.4. Đối với quy tắc lạm phát mục tiêu

Quy tắc LPMT có lợi thế là không cần phải biết thông tin về lãi suất thực tế cân bằng như quy tắc Taylor. Bên cạnh đó, việc công bố mức LPMT sẽ làm tăng niềm tin của công chúng và thị trường vào mục tiêu mà NHTW theo đuổi, do đó tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình CSTT của NHTW (Mishkin, 2000 và 2001). Hơn nữa, việc công bố mức LPMT sẽ giúp neo kỳ vọng về lạm phát từ đó giúp ổn định giá cả. Đến lượt nó, sự ổn định giá cả và kỳ vọng lạm phát được neo tốt lại thúc đẩy ổn định sản lượng và việc làm một cách hiệu quả hơn (Bernanke, 2000).

Mặc dù vậy khi áp dụng quy tắc LPMT lại gặp phải khó khăn đó là quy tắc không chỉ rõ NHTW nên đo lường tốc độ tăng của sản lượng và tốc độ chu chuyển tiền tệ theo từng thời kỳ hay nên tính trung bình trong một số thời kỳ hoặc dự đoán theo xu thế. Nếu đo lường các biến số này trong từng thời kỳ sẽ tốn thời gian và chi phí cho việc thu thập thông tin. Còn nếu dự đoán tốc độ tăng dựa theo xu thế thì có thể không đảm bảo độ chính xác.

Bên cạnh đó, khi áp dụng quy tắc LPMT thì mục tiêu lạm phát phải là mục tiêu được ưu tiên hàng đầu nên nhiều khả năng sẽ khiến nền kinh tế mất đi sự ổn định trong một số trường hợp, đặc biệt là khi NHTW lựa chọn đánh đổi mục tiêu tăng trưởng và việc làm để đạt được lạm phát ổn định (Mishkin, 2001). Ví dụ, khi nền kinh tế đối mặt với cú sốc cung bất lợi. Hậu quả là mức giá của nền kinh tế tăng (làm tăng tỷ lệ lạm phát) còn sản lượng thực tế và việc làm đều giảm. Khi tỷ lệ lạm phát cao hơn so với dự kiến, NHTW sẽ giảm cung tiền để giảm lạm phát. Trong trường hợp này, CSTT thắt chặt tuy giảm được lạm phát nhưng lại khiến sản lượng thực tế và việc làm giảm sâu hơn. Hơn nữa, trong khuôn khổ chính sách LPMT đòi hỏi tính linh hoạt trong TGHĐ, song khi TGHĐ linh hoạt có thể làm tăng bất ổn tài chính (Mishkin, 2001).

Ngoài ra, cũng vì kiểm soát lạm phát mục tiêu ưu tiên số một nên khi vận dụng quy tắc này đòi hỏi NHTW phải hoàn toàn độc lập với chính phủ. Điều đó đồng nghĩa với việc NHTW được quyền chủ động trong việc hoạch định và thực thi CSTT; NHTW cũng không chịu các áp lực tài khóa, tức là NHTW không phải tài trợ cho thâm hụt ngân sách nhà nước, kỷ luật thu – chi ngân sách phải được đảm bảo. Nếu yêu cầu đó không đáp ứng được sẽ làm tăng áp lực đối với các cơ quan tiền tệ trong việc tài trợ để trả nợ, khi đó sẽ làm cung tiền và lạm phát tăng nhanh. Hậu quả là CSTT trở nên phụ thuộc vào các quyết định tài khoá và mục tiêu lạm phát sẽ khó có thể đạt được.

 

 

Tài liệu tham khảo

 

  1. Akram Esanov, Christian Merkl, Lúcio Vinhas de Souza, 2004, “Monetary Policy Rules for Russia”, BOFIT – Institute for Economies in Transition, Bank of Finland, Discussion Papers, No. 11.
  2. Alan Ahearne, Joseph Gagnon, Jane Haltmaier, Steve Kamin, 2002, "Preventing Deflation: Lessons from Japan’s Experience in the 1990s”, International Finance Discussion Papers, Number 729.
  3. Alexander William Salter, 2014, “An Introduction to Monetary Policy Rules”, Mercatus Working Paper, Mercatus Center at George Mason University, Arlington, VA, http://mercatus.org/publication/introduction-monetary-policy-rules.
  4. Athanasios Orphanides, 2001, “Monetary policy rules based on real-time data”, American Economic Review, Volume 91, pp 964-985.
  5. Athanasios Orphanides, 2003, “Historical Monetary Policy Analysis and the Taylor Rule”, Paper prepared for the Carnegie-Rochester Conference on Public Policy on the 10th anniversary of the Taylor rule, Pittsburgh,
  6. Barnett, W.A. & Duzhak, E.A., 2008, “Non-robust dynamic inferences from
    macroeconometric models: Bifurcation stratification of confidence regions”,
    Physical A: Statistical Mechanics and Its Applications 387(15), 3817-3825.
  7. Barro, Robert J., and David B. Gordon, 1983, “A Positive Theory of Monetary Policy in a Natural Rate Model.” Journal of Political Economy 91(4): 589–610.
  8. Ben S. Bernanke, 2015, “The Taylor Rule: A benchmark for monetary policy?”, https://www.brookings.edu/blog/ben-bernanke/2015/04/28/the-taylor-rule-a-benchmark-for-monetary-policy/
  9. Benjamin M. Friedman and Kenneth N. Kuttner, 1996, “A price target for US monetary policy? Lessons from the experience with money growth target”, Bookings PaperS on Economic Activity, 77 – 146.
  10. Bennett T. McCallum, 1993, “Discretion versus Policy Rules in Practice, Two Critical Points: A Comment”, Carnegie-Rochester Conference Series on Public Policy, 39th, December, 215-220.
  11. Bennett T. McCallum, 2001, “Monetary Policy Rules and the Japanese Deflation”, Paper prepared for the March 20, 2002, workshop sponsored by the Economic and Social Research Institute of the Japanese Government.
  12. Clarida, Richard, Jordi Gal, and Mark Gertler, 1998, “Monetary Policy Rules and Macroeconomic Stability: Evidence and Some Theory”, NBER Working paper, No. 6442.
  13. Cochrane John H. 2007, “Identification With Taylor Rules: A Critical Review”, NBER working paper, No. 13410.
  14. Danfeng Kong, 2008, “Monetary policy rule for China: 1994 – 2006”, East Asia Economic Research Group Discussion Paper No. 14, School of Economics, The University of Queensland.
  15. Eggertsson, G., Woodford, M., 2003, “The zero bound on interest rates and optimal monetary policy”, Brookings Papers on Economic Activity 2003 (1), 139–211
  16. Frederic S. Mishkin, 2001, “Inflation Targeting”, Paper prepared for Brian Vane and Howard Vine, An Encyclo- pedia of Macroeconomics, Edward Elgar.
  17. Iikka Korhonen, Riikka Nuutilainen, 2017, “Breaking monetary policy rules in Russia”
  18. John B. Taylor, 1993, “Discretion versus policy rules in practice”, Paper prepared for Carnegie-Rochester Conference Series on Public Policy 39 (1993), North-Holland, 195-214.
  19. John B. Taylor, 2007, “Housing and Monetary Policy”, NBER Working Paper, No. 13682.
  20. John P. Judd and Glenn Rudebusch, 1998, “Taylor's rule and the Fed, 1970-1997”, Economic Review, 1998, 3-16.
  21. Kozicki. S, 1999, “How useful are Taylor rules for Monetary Policy”, Federal Reserve Bank of Kansas, Economic Review, Volume 84, Second quarter, pp 5-33.
  22. Kydland, Finn E., and Edward C. Prescott, 1977, “Rules Rather than Discretion: The Inconsistency of Optimal Plans.” Journal of Political Economy 85(3), 473–9.
  23. Lê Thị Ngọc Liên, 2015, “Chính sách tiền tệ và công cụ trần lãi suất: có nên lạm dụng?”, http://daihochoabinh.edu.vn, truy cập tháng 4/2016.
  24. Mansour Samia, 2009, “Taylor rule: Presentation, interpretation and estimation the case of the Tunisian Central Bank, Submission for the 3rd Italian Congress of Econometrics and Empirical Economics (ICEEE 2009)
  25. McCallum Bennett T. 1993, “Specification and Analysis of A Monetary Policy Rule for Japan”, NBER Working Paper, No. 4449.
  26. McCallum Bennett T. March 2002a, “Monetary Policy rules and the Japanese Deflation”, Conference Paper for the March 20, 2002 Workshop Sponsored by the Economic and Social Research Institute of the
  27. Mehrotra, Aaron and José R. Sánchez-Fung, 2011, “Assessing McCallum and Taylor rules in a cross-section of emerging market economies”, Journal of International Financial Markets, Institutions & Money 21, pp. 207–228.
  28. Naudon, Alberto and Vial, Joaquín (2016), “The Evolution of Inflation in Chile Since 2000”, BIS Paper No. 89g.
  29. Nguyễn Đức Long và Lê Quang Phong, 2012, “Nguyên tắc Taylor trong điều hành chính sách tiền tệ”, Tạp chí Ngân hàng, Số 23, tháng 12/2012.
  30. Phạm Thế Anh, 2011, “Lạm phát và các quy tắc chính sách tiền tệ”, Bài thảo luận chính sách CS-05, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, ĐH Quốc gia Hà Nội
  31. Pier Francesco Asso, George A. Kahn, Robert Leeson, 2007, “The Taylor Rule and the Transformation of Monetary Policy”, Paper prepared for presentation at the Federal Reserve Bank of Dallas’ conference on “John Taylor’s Contribution to Monetary Theory and Policy”.
  32. Rodrigo Valdés, 2007, “Inflation Targeting in Chile: Experience and Selected Issues”, Economic Policy Papers, No. 22, Central Bank of Chile.
  33. Vũ Hải Yến, 2015, “Áp dụng nguyên tắc Taylor tại Nhật Bản và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, Số 19, tháng 10/2015, tr. 48 – 56.
  34. Woglom”, G. 2003, “How Has Inflation Targeting Affected Monetary Policy in South Africa?, South Africa Journal of Economics, 71(2), pp. 198-210.

 

[1] Trường Đại học Ngoại thương, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

 

CÓ THỂ HỌC ĐƯỢC GÌ TỪ KHOÁ HỌC TIẾNG ANH ĐẦU VÀO (PRE-SESSION ENGLISH COURSE) CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC SOUTHAMPTON CHO CÁC MÔN THỰC HÀNH TIẾNG CỦA KHOA TIẾNG ANH THƯƠNG MẠI?

Nguyễn Thị Diễm Hà[1]

 

Tóm tắt

Với kinh nghiệm đi dạy cho hai khoá tiếng Anh đầu vào dành cho sinh viên quốc tế tại trường Đại học Southampton, tôi nhận thấy có rất nhiều điểm chúng ta có thể học tập từ việc xây dựng chương trình, tài liệu học tập đến phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá, trao đổi chuyên môn và ứng dụng khoa học công nghệ của chương trình này vào các môn thực hành tiếng tại Khoa Tiếng Anh Thương mại.

Từ khóa

Giảng dạy tiếng Anh, Xây dựng chương trình, Phương pháp giảng dạy, Kiểm tra đánh giá, Trao đổi chuyên môn

Abstract                                                                                            

There are some similarities in language competence of the international students of Pre-session English course at University of Southampton and undergraduate students at Faculty of Business English, Foreign Trade University. Learning from their student-centred approach and effective feedback, we can improve our syllabus design, materials, teaching methods, testing and assessment, mentoring, and the use of technology for the language modules of Faculty of Business English.

Key words: Student-centred approach, effective feedback, English language teaching, syllabus design, teaching method, testing, assessment, mentoring

1.     Mở đầu

Chương trình tiếng Anh đầu vào của trường Đại học Southampton (sau đây gọi tắt là Pre-session) được tổ chức hàng năm vào thời điểm trước khi bắt đầu năm học chính thức dành cho một số sinh viên gần đáp ứng điều kiện về tiếng Anh cho khoá học mà mình đăng ký tại trường (sinh viên nhận được giấy báo trúng tuyển có điều kiện). Trong phạm vi một bài báo cáo, tôi xin tập trung vào hai kỹ năng Nghe và Nói là hai kỹ năng mà tôi được giao nhiệm vụ giảng dạy trong thời gian này. Đối tượng học viên của tôi là sinh viên đã tốt nghiệp đại học chuẩn bị học cao học về chuyên ngành Kinh tế, nên xét về trình độ học vấn có thể không tương đồng; tuy nhiên, xét về trình độ tiếng Anh thì các sinh viên này có trình độ thấp hơn hoặc tương đương sinh viên đủ điều kiện xét tuyển vào chuyên ngành Tiếng Anh Thương mại của Đại học Ngoại thương (sau đây gọi tắt là TATM) (theo Trường Đại học Ngoại thương, 2019 và University of Southampton, 2018b, tr.15). Hơn nữa, mục tiêu giúp học viên có khả năng tiếng Anh đủ điều kiện để học tập tại các nước tiếng Anh ở bậc cao học của khoá học Pre-session cũng phù hợp với mục tiêu đào tạo của Khoa TATM (theo Khoa Tiếng Anh Thương mại, 2013, tr.1). Vì vậy, việc tham khảo khung chương trình, tài liệu học tập, phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá và trao đổi chuyên môn cho kỹ năng Nghe và Nói học thuật của Pre-session là hoàn toàn phù hợp với chương trình đào tạo kỹ năng thực hành tiếng trong các học phần Nghe và Nói của Khoa TATM.

2.     Một số vấn đề về lý luận trong giảng dạy tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ hai

Trong phần này, tôi xin bàn về hai triết lý về giáo dục và giảng dạy được đề cao trong khoá học này là hướng tiếp cận lấy người học làm trung tâm (student-centred approach) và phản hồi tích cực (effective feedback). Đây là hai triết lý được nhấn mạnh từ khâu tuyển dụng giáo viên cho đến lên chương trình khung và thực hiện. Một trong số các câu hỏi tuyển dụng là ứng viên phải trình bày kinh nghiệm của mình liên quan đến hai triết lý giảng dạy này.

2.1.           Hướng tiếp cận lấy người học làm trung tâm

Hướng tiếp cận lấy người học làm trung tâm là một phương pháp giảng dạy chuyển vai trò trung tâm của buổi học từ phía người giáo viên sang người học viên. Thông tin của giờ học không nằm chủ yếu vào bài giảng của giáo viên mà là việc học chủ động tích cực từ phía học viên. Hướng tiếp cận này giúp học viên nhìn ra trách nhiệm học tập của mình và vai trò của giáo viên từ người truyền đạt toàn bộ hoặc phần lớn thông tin thành người hỗ trợ, cố vấn học tập (facilitator).

Theo Jones (2007, tr.2), trong một lớp học mà học viên là trung tâm thì học viên không trông chờ phụ thuộc vào chỉ dẫn của giáo viên, chờ giáo viên công nhận đáp án đúng, chờ giáo viên sửa lỗi, đưa ra lời khuyên hay khen ngợi. Học viên cũng không làm việc cá nhân mà giao tiếp với bạn khác. Học viên ghi nhận đóng góp của bạn, hợp tác, học hỏi và giúp đỡ lẫn nhau. Như vậy, có thể nói một lớp học truyền thống với học sinh ngồi ngay ngắn, trật tự, chăm chú nghe thầy cô giáo giảng bài có thể không còn phù hợp với hướng tiếp cận này. Khi có bài khó hoặc không chắc chắn về đáp án, học viên có thể hỏi giáo viên, nhưng trước tiên học viên phải tự mày mò tìm câu trả lời đã. Trọng tâm của giờ học là làm việc cùng nhau, theo cặp, theo nhóm hay là toàn bộ lớp học cùng tham gia vào một hoạt động nào đó. Vai trò của giáo viên chỉ là giúp học viên phát triển các kỹ năng về ngôn ngữ.

Trong giai đoạn công nghệ phát triển như vũ bão, việc ứng dụng công nghệ trở nên phổ biến trong các lớp học thì việc tương tác giữa học viên với nhau và việc tự nghiên cứu tài liệu để tìm thông tin cho bài học cũng trở nên dễ dàng hơn. Việc áp dụng hướng tiếp cận lấy người học làm trung tâm và phát huy tính tự chủ của học viên cũng có cơ hội để phát triển (theo Hannafin 2010). Hướng tiếp cận này lại đặc biệt phù hợp với bối cảnh giảng dạy ngoại ngữ. Đến thập niên 80, các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ và phương pháp giảng dạy đã nhận thấy sự bất cập của hướng tiếp cận truyền thống là tập trung vào cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ. Hướng tiếp cận tập trung vào giao tiếp (communicative language teaching hay CLT) và sự kết hợp nhiều phương pháp giảng dạy ngoại ngữ thay vì một phương pháp đang ngày càng phát huy tính hiệu quả theo đánh giá của cả người dạy và người học (theo Nunan 1988).

2.2.           Phản hồi tích cực

Đây là một khái niệm trong kiểm tra đánh giá. Và để hiểu khái niệm này, chúng ta nên xem xét các phạm trù bao quát hơn của nó. Trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu về một số hình thức đánh giá.

2.2.1.     Tổng quan về kiểm tra đánh giá

Nếu mục đích là để đánh giá học viên thì có hai hình thức là đánh giá tổng kết (summative assessment) và đánh giá quá trình (formative assessment).

Đánh giá tổng kết là hình thức đánh giá kết quả của một chương trình đào tạo. Trong khi đó, đánh giá quá trình tập trung vào sự tiến bộ của người học trong một khoảng thời gian nhất định. Theo Scriven (1976) thì tất cả các phương pháp đánh giá đều là đánh giá tổng kết, trong đó chỉ có một số ít mang tính chất đánh giá quá trình.

Pregent (1994) đã tóm tắt những khác biệt cơ bản của hai hình thức này như bảng sau:

Bảng 1. Những khác biệt cơ bản của đánh giá tổng kết và đánh giá quá trình

 

Đánh giá tổng kết

Đánh giá quá trình

Thời điểm

Cuối hoạt động học

Trong quá trình học

Mục đích

Đưa ra quyết định

Cải thiện chất lượng học

Phản hồi

Phán quyết cuối cùng

Điều chỉnh tài liệu

Khung đối chiếu

Theo chỉ tiêu (so sánh từng học viên với các học viên còn lại) hoặc theo tiêu chí

Luôn luôn theo tiêu chí (đánh giá học viên theo một chuẩn chung)

Nguồn: Pregent, R., 1994, tr.42 và 45

Ngoài hai hình thức đánh giá này, còn có một hình thức đánh giá khác nhằm vào cơ sở giáo dục gọi là đánh giá kiểm định (evaluative assessment – theo William 2004, tr.2).

Trong hệ thống giáo dục ở Anh, đánh giá quá trình (hoặc đánh giá quá trình học tập) là yếu tố then chốt trong lộ trình khuyến khích học tập dựa vào khả năng cá nhân (personalised learning – theo Jones 2005). Ban Cải cách giáo dục giai đoạn 2014-2019 do Ngài Mike Tomlinson đứng đầu nhấn mạnh rằng việc đánh giá học viên phải phụ thuộc nhiều hơn vào chính giáo viên giảng dạy và phụ thuộc ít hơn vào các tiêu chí đánh giá thuộc bên thứ ba. Điều này sẽ biến học viên trở thành tâm điểm của quá trình đánh giá (cùng tác giả).

2.2.2.     Phản hồi tích cực – chiến lược quan trọng trong đánh giá quá trình

Để tiến hành đánh giá quá trình, người ta có rất nhiều chiến lược; ví dụ như năm chiến lược của William (2007): hiểu mục đích học tập, kiến tạo môi trường lớp học thảo luận tích cực, phản hồi, khuyến khích học sinh làm chủ việc học tập của mình và giúp học sinh học hỏi từ bạn bè.

Trong các chiến lược này, phản hồi là một thành phần quan trọng của quy trình đánh giá quá trình (theo Brookhart, 2017, tr.1). Đánh giá quá trình giúp giáo viên và học viên thấy được học viên đang làm đến đâu để đạt được mục tiêu của môn học. Đưa ra phản hồi tốt là một trong những kỹ năng mà giáo viên cần phải có được nếu muốn làm tốt việc đánh giá quá trình.

            Phản hồi nếu làm tốt sẽ phát huy được thế mạnh của nó. Phản hồi tốt cho học viên những thông tin mà họ cần để họ biết khả năng học tập của mình đang ở đâu và bước tiếp theo cần phải làm là gì. Brookhart hướng dẫn giáo viên đưa ra phản hồi tích cực bằng hình ảnh ẩn dụ “ba lăng kính” (“the three lenses”, theo Brookhart, 2017, tr. 4): kính hiển vi, máy ảnh và kính viễn vọng. Để làm tốt điều này, giáo viên cần đặt ra những câu hỏi sau đây để phân tích phản hồi của mình:

Bảng 2. Hướng dẫn phân tích phản hồi

Kính hiển vi

Đánh giá phản hồi.

-         Phản hồi có mang tính mô tả không?

-         Phản hồi có kịp thời không?

-         Phản hồi có đủ lượng thông tin chưa?

-         Phản hồi có đối chiếu với tiêu chí không?

-         Phản hồi có tập trung vào hoạt động học tập của học viên không?

-         Phản hồi có tập trung vào quá trình không?

-         Phản hồi có tích cực không?

-         Phản hồi có dễ hiểu (cho học viên) không?

-         Phản hồi có cụ thể (nhưng không cụ thể quá) không?

-         Giọng điệu của phản hồi có ám chỉ học viên là một học viên tích cực không?

Máy ảnh

Phản hồi cung cấp những minh chứng nào?

-         Học viên học được gì từ phản hồi?

-         Giáo viên học được gì từ phản hồi?

Kính viễn vọng

(Các) bước tiếp theo mà giáo viên và học viên cần làm để ứng dụng phản hồi này vào việc học là gì? Các bước này sẽ được thực hiện như thế nào? Việc học tập có tiến bộ không?

Nguồn: Brookhart, 2017, tr.5

Tóm lại, phản hồi tích cực là một phần quan trọng của đánh giá quá trình. Phản hồi phải cụ thể, kịp thời và mang tính xây dựng, giúp cả giáo viên và học viên hiểu rõ hơn và khả năng của học viên để từ đó có những kế hoạch hỗ trợ để giúp học viên tiến bộ hơn, đạt được mục tiêu đề ra của môn học hoặc khoá học.

So với đánh giá tổng kết, đánh giá quá trình phát huy được tối đa hướng tiếp cận lấy người học làm trung tâm khi mục tiêu của nó là tìm hiểu mặt tốt và chưa tốt của học viên để thay đổi nội dung và mục tiêu cho chu kỳ học tập tiếp theo (formative learning cycle – Brookhart, 2017, tr.3).

3.        Tổng quan về học phần Nghe Nói của khoá học tiếng Anh đầu vào tại trường Đại học Southampton dành cho học viên cao học chuyên ngành Kinh tế

Trong phần này tôi xin mô tả chi tiết về toàn bộ khoá học từ mục tiêu môn học, xây dựng chương trình, phương pháp giảng dạy đến kiểm tra đánh giá, thể hiện rất rõ hướng tiếp cận lấy người học làm trung tâm và phương pháp phản hồi tích cực được sử dụng xuyên suốt và hiệu quả.

3.1.           Mục tiêu môn học

Đây là khoá học dành cho các sinh viên chưa đạt yêu cầu về tiếng Anh để bắt đầu khoá học thạc sĩ. Các học viên này có một hoặc hơn các điểm thành phần bị thiếu từ 0.5 đến 1 điểm IELTS so với yêu cầu. Tuy nhiên, mục tiêu môn học lúc này không phải là để luyện IELTS nhằm tăng số điểm của học viên lên bằng điểm yêu cầu, mà trọng tâm của nó là các kỹ năng ngôn ngữ và học thuật cần thiết cho việc học của các sinh viên này trong thời gian học tập sắp tới của mình tại khoá học thạc sĩ chính thức.

Cụ thể, đối với phần Nghe, học viên sẽ được luyện kỹ năng nghe hiểu học thuật, tăng sự tự tin để có thể hiểu các bài giảng tại các trường đại học ở Anh. Học viên cũng được luyện tập hiệu quả kỹ năng ghi chép vắn tắt (note taking) và các kỹ thuật nghe giúp học viên có thể hiểu được đa dạng các kiểu bài giảng, thảo luận nhóm và hiểu được bạn mình nói gì. Về phần Nói, học viên phát triển kỹ năng nói học thuật, bao gồm tự tin thuyết trình về chủ đề học thuật và tham gia vào các buổi thảo luận liên quan đến học thuật. Học viên cũng được cải thiện về phát âm và luyện kỹ năng tư duy phản biện đối với một số chủ đề liên quan đến chuyên môn. (Theo University of Southampton, 2018a, tr.4)

3.2.           Xây dựng chi tiết học phần môn học và tài liệu học tập

Xuất phát từ mục tiêu môn học, chi tiết học phần môn học được chia nhỏ ra theo các kỹ năng nhỏ hơn phục vụ cho mục tiêu chính của môn học. Cụ thể nội dung các kỹ năng nhỏ được sắp xếp như sau.

Đối với kỹ năng nghe, thứ nhất, nội dung môn học tập trung vào bố cục của một bài giảng. Đầu tiên, học viên học cách dự đoán nội dung bài giảng và từ khoá, thuật ngữ dựa vào tiêu đề; rồi nắm bắt nội dung chính và cấu trúc bài giảng dựa vào phần giới thiệu. Tiếp theo, trong phần nội dung chính của bài giảng, dựa vào ngôn ngữ được sử dụng, học viên học cách phát hiện ra nội dung quan trọng, lý lẽ hoặc ví dụ hỗ trợ cho luận điểm; phát hiện những chi tiết trích dẫn từ nghiên cứu; phát hiện ra các ngôn ngữ báo hiệu bài giảng chuyển sang phần mới; phát hiện thuật ngữ và khái niệm mới đang được giải thích; và phát hiện nội dung đi ra ngoài lề nội dung học. Ngoài ra, một số kỹ thuật bổ trợ như ghi chép vắn tắt với kỹ thuật viết tắt và sử dụng ký hiệu; cách sắp xếp lại nội dung ghi chép cho có tổ chức và khoa học để thuận lợi cho việc xem lại và ôn tập sau này; cách diễn đạt lại khi gặp phải từ mới dựa vào ngữ cảnh; và xem lại nội dung ghi chép cũng được hướng dẫn và luyện tập hiệu quả.

Kỹ năng nói gồm hai kỹ năng lớn là thuyết trình và thảo luận nhóm, và một số bài tập luyện phát âm đan xen. Phần thuyết trình tập trung vào bố cục của một bài thuyết trình từ giới thiệu đến xây dựng phần nội dung chính cho bài thuyết trình, cách kết thúc một bài thuyết trình, và cách xử lý câu hỏi của khán giả. Ngoài ra học viên cũng được luyện một số kỹ thuật khác giúp ích cho thuyết trình hiệu quả như cách sử dụng ngôn ngữ cơ thể và giao tiếp bằng mắt; cách gây ấn tượng cho một bài thuyết trình; cách sử dụng ngôn ngữ trong những trường hợp không hoàn toàn chắc chắn; cách sử dụng hình ảnh và tài liệu bổ trợ hiệu quả cho bài thuyết trình; cách sử dụng bảng biểu và số liệu; sử dụng ngôn ngữ để mô tả hình ảnh và số liệu; sử dụng hiệu quả giấy ghi nhớ; và kỹ năng chuẩn bị cho bài thuyết trình, tập dượt trước, kiểm soát cảm xúc để không mất bình tĩnh. Phần thảo luận nhóm tập trung vào các kỹ năng nhỏ hơn như tán thành và phản đối; cách lập luận bằng lý lẽ và phản chứng; đưa ra gợi ý; phản hồi lại tranh luận của người khác; cách làm chủ toạ và điều hành một buổi thảo luận nhóm; cách thể hiện quan điểm cá nhân; cách ngắt lời và chờ đến lượt mình đưa ra ý kiến; cách so sánh các luận điểm khác nhau; cách khẳng định hoặc hỏi lại thông tin để đảm bảo mình hiểu đúng ý đồ của người tham gia thảo luận; cách sử dụng ngôn ngữ để tăng tính thuyết phục; và cách đặt câu hỏi để tham khảo ý kiến và để kiểm chứng thông tin. Phần phát âm tập trung vào các nội dung cần thiết cho thuyết trình và thảo luận nhóm như trọng âm từ, trọng âm câu, ngữ điệu.

Do chi tiết môn học tập trung vào kỹ năng nhỏ nên không có một sách giáo khoa sử dụng cho toàn bộ khoá học mà rất nhiều cách tài liệu khác nhau. Về sách, khoá học sử dụng tổng cộng 47 cuốn sách, bao gồm 29 sách về thực hành kỹ năng nghe nói, 11 sách chuyên về tiếng Anh Thương mại, 7 sách về giảng dạy nghe nói (trong đó có một cuốn chuyên về giảng dạy nghe nói Tiếng Anh Thương mại) (theo University of Southampton, 2018a, tr.38-42). Về nguồn tài liệu mở, với kỹ năng nghe, chương trình sử dụng 9 trang web về các chủ đề thông thường, 18 trang web về chủ đề học thuật, và 10 trang web về chủ đề kinh tế, thương mại. Con số này là 9 đối với kỹ năng nói. (Theo University of Southampton, 2018a, tr.43-47). Nên có thể nói là giáo viên và học viên được cung cấp một kho tư liệu khổng lồ để khai thác, phục vụ cho các mục tiêu cả nhỏ và lớn của môn học. Tuy vậy, học viên vẫn được khuyến khích khai thác thêm từ nhiều nguồn khác chứ không nên bị giới hạn bởi danh sách này vì kiến thức của con người là vô tận.

3.3.           Phương pháp giảng dạy lấy người học làm trung tâm và phản hồi tích cực

Về phương pháp giảng dạy, tôi nhận thấy giờ học nghe nói của Pre-session rất đa dạng về hoạt động. Xuất phát từ thực tế là sự tập trung của thanh thiếu niên và người lớn chỉ giao động trong khoảng 10 đến 15 phút khi nghe giảng (theo Wilson và Korn, 2007). Vì vậy mỗi hoạt động chỉ kéo dài tối đa 20 phút và nhanh chóng chuyển sang hoạt động khác.

Với sự hỗ trợ của tài liệu môn học, vai trò của giáo viên là hướng dẫn nhiệm vụ của các hoạt động học để sinh viên tự tìm câu trả lời, học hỏi từ bạn bè và giáo viên chỉ trợ giúp khi học viên thực sự không còn sự hỗ trợ. Lớp học của Pre-session thường được sắp xếp bàn theo nhóm nhỏ để thuận tiện cho các hoạt động nhóm.

Với vai trò lấy người học làm trung tâm, giáo viên không dành quá nhiều thời gian giảng dạy mà đưa ra phản hồi tích cực giúp học viên tiến bộ. Giáo viên thực hiện theo ba bước phản hồi (ba “lăng kính”) (xem Bảng 2, tr. 5): (1) kính hiển vi – phản hồi cụ thể kịp thời ngay sau khi sinh viên thực hiện hoạt động (tập trung vào việc sinh viên đáp ứng yêu cầu của hoạt động đến đâu, khen ngợi thái độ học tập và kỹ thuật, kỹ năng đạt được trong giờ học), (2) máy ảnh – giáo viên và học viên có thể ghi chép lại những nội dung phản hồi ở phần (1), và (3) kính viễn vọng – giáo viên và học viên tổng kết những yếu tố nào cần phát huy và những yếu tố nào chưa tốt cần bồi dưỡng thêm để có thể thay đổi nội dung hoặc thay đổi trọng tâm, trọng lượng giờ học cho buổi học tiếp theo.

Để giúp học viên có cơ hội luyện tập sát với thực tế, mỗi tuần học viên có một giờ (45 phút) đi nghe giảng một bài giảng của giảng viên mời giảng (guest lecture). Giảng viên mời có thể là giảng viên, nhân viên hoặc sinh viên khác, có thể là người bản xứ hoặc không để giúp sinh viên làm quen với nhiều cách phát âm tiếng Anh khác nhau và phong cách giảng bài khác nhau. Nội dung đa dạng và thiết thực từ học thuật chuyên môn (Quản lý dự án, Quản lý cải cách, Kế toán, Kỹ năng lãnh đạo tập đoàn đa quốc gia, Ứng dụng mạng xã hội vào kinh doanh), kỹ năng học tập (Cách biến ý tưởng thành câu hỏi nghiên cứu, Cách sử dụng nguồn tài liệu của thư viện, Những điều cần biết về đạo văn) đến thường thức xã hội (Brexit, Làm việc trong giờ và ngoài giờ) và cuộc sống đời thường (Những khó khăn của sinh viên quốc tế tại Anh, Chìa khoá thành công) (Theo trang nội bộ của Pre-session 2018). Các buổi học này sẽ học tập trung theo lớp lớn theo đúng mô hình của một giờ học hội trường lớn. Học sinh sẽ luyện kỹ năng nghe vừa được học trong tuần. Sau buổi học này sẽ có một giờ học 45 phút trong đó có khoảng 15 phút dành cho thảo luận nhóm về nội dung mà học viên ghi chép lại được từ giờ học với giảng viên mời giảng. 

Để hiểu rõ hơn về người học, Pre-session có một hoạt động rất thú vị gọi là tư vấn cá nhân (tutorial). Mỗi buổi tư vấn kéo dài 10 phút để giáo viên và học viên trao đổi về những khó khăn mà học viên đang gặp phải cần tháo gỡ. Giáo viên có thể đưa ra nhận xét riêng về kết quả kiểm tra mới nhất của học viên hoặc trả lời các câu hỏi của học viên về bài kiểm tra sắp tới. Giáo viên ghi biên bản buổi họp để dựa vào đó có những chỉnh sửa hoặc lưu ý cho những bài giảng tiếp theo (xem Phụ lục 1). Đều đặn cứ hai tuần thì mỗi học viên có một buổi tư vấn như vậy, kéo dài cho đến hết khoá học. Giáo viên dựa vào những ghi chép của buổi tư vấn đó để chỉnh sửa giáo án cho những môn học sau được tốt hơn.

Một hoạt động khác giúp tăng tính tự chủ của học viên và giúp sinh viên luyện nghe là Listening Log. Hàng tuần sẽ có một nhóm hoặc một cặp học viên thiết kế bài tập nghe dựa vào một video clip về chủ đề học thuật nào đó mà học viên đó tìm được. Hoạt động này kéo dài khoảng 10 phút (Xem Hình 1). Giáo viên có vai trò hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho học viên, giống như một người trợ giảng.

Hình 1. Ảnh chụp từ video clip và bài tập nghe trong hoạt động Listening Log

Nguồn: Tư liệu của tác giả

3.4.           Kiểm tra đánh giá

3.4.1.     Đánh giá quá trình và đánh giá tổng kết

Với phương châm lấy người học làm trung tâm, các hình thức kiểm tra đánh giá học viên nhằm mục đích theo dõi sự tiến bộ và hiểu rõ điểm mạnh yếu của học viên để giúp học viên đạt kết quả tốt nhất (đạt được mục tiêu môn học) khi kết thúc khoá học. Đánh giá quá trình và đánh giá tổng kết đều được áp dụng cho tất cả các phân môn Nghe, Nói, Đọc, Viết của Pre-session.

Cụ thể, với môn Nghe, có hai bài đánh giá quá trình giúp học viên làm quen với cấu trúc đề thi và các dạng câu hỏi. Sau mỗi bài kiểm tra, giáo viên tổng kết lại các lỗi phổ biến của sinh viên từ lỗi kỹ thuật như viết sai chính tả, chữ viết xấu không phân biệt được đáp án “e” và “c” v.v.; các lỗi về kỹ năng làm bài như việc học viên không tận dụng tối đa 10 phút đọc đề để đánh dấu từ khoá, nghiên cứu cách tóm tắt nội dung câu hỏi và liệt kê các từ đồng nghĩa và cách diễn đạt tương đương; cho đến các vấn đề liên quan đến kỹ năng nghe hiểu như nhận diện các cụm từ mang tính chỉ dẫn thông tin, ghi chép vắn tắt nội dung liên quan đến câu hỏi để có cơ sở trả lời câu hỏi sau này v.v. Điểm của phần này chỉ mang tính chất tham khảo, không dùng để xét vào cuối khoá. Bài kiểm tra cuối khoá để xét xem sinh viên có đạt điều kiện về tiếng Anh cho khoá học Thạc sĩ sắp tới không có cấu trúc không khác bài kiểm tra quá trình.

Môn Nói chia ra làm hai phần nhỏ hơn là thuyết trình cá nhân và thảo luận nhóm. Trong phần thuyết trình, các bài kiểm tra quá trình nhằm mục đích luyện tập từng bước cho học viên trước khi đạt chuẩn cuối cùng là có thể thuyết trình cá nhân hiệu quả. Bài kiểm tra thứ nhất là một bài thảo luận nhóm về một trong những chủ đề liên quan đến thương mại. Mục đích là giúp học viên làm quen với việc nói trước đám đông, luyện tập cách sắp xếp một bài thuyết trình hợp lý, khoa học và tập trả lời câu hỏi phản biện. Bài kiểm tra thứ hai là bài thuyết trình cá nhân ngắn trong 5 phút giới thiệu sơ qua về chủ đề của bài nói chính thức vào cuối khoá và đánh giá về nguồn tài liệu mà học viên sử dụng. Ở phần thảo luận nhóm, hai bài đánh giá quá trình có vai trò tương tự như phần nghe, có cấu trúc giống hệt bài thi cuối khoá nhưng không lấy điểm chính thức mà chỉ mang tính chất tham khảo. Ở phần nói, bài kiểm tra đầu tiên với cả thuyết trình và thảo luận nhóm đều không có điểm, chỉ có nhận xét. Bài thứ hai mới có điểm để học viên tham khảo nhưng không lấy điểm để xét tuyển.

3.4.2.     Chấm điểm

Giống như môn Đọc, môn Nghe mang tính khách quan hơn nên cơ bản không có nhiều bất đồng quan điểm trong việc chấm bài. Các dạng câu hỏi khá giống với IELTS như xác định Đúng/Sai/Không có thông tin, lựa chọn đáp án đúng, đặt tiêu đề cho hình minh hoạ/bảng biểu, điền thông tin còn thiếu v.v. Bài thi gồm hai phần: một bài giảng hoàn chỉnh có minh hoạ bằng Powerpoint và một thảo luận nhóm, phỏng vấn, chương trình trò chuyện trên truyền hình v.v. về vấn đề học thuật. Bài kiểm tra do giáo viên giảng dạy chấm và một giáo viên khác soát lại. Khi có sự khác biệt, hai giáo viên trao đổi trực tiếp để thống nhất điểm.

Việc đánh giá kỹ năng nói mang tính chủ quan hơn nên có một bảng biểu chấm với nhiều tiêu chí khác nhau. Cả hai phần thuyết trình và thảo luận đều có ba tiêu chí giống nhau là nội dung, phát âm và ngôn ngữ sử dụng. Nội dung gồm nội dung rõ ràng, bố cục chặt chẽ và thể hiện học viên hiểu đề tài. Phát âm gồm phát âm, ngữ điệu và độ trôi chảy. Ngôn ngữ sử dụng gồm ngữ pháp, lựa chọn từ phù hợp và vốn từ phong phú (Xem Phụ lục 2). Tiêu chí còn lại liên quan đến kỹ năng thuyết trình và kỹ năng thảo luận áp dụng tương ứng cho mỗi kỹ năng. Kỹ năng thuyết trình gồm ngôn ngữ cơ thể, phương tiện trực quan, khả năng chuyển tải, trích dẫn nguồn và trả lời câu hỏi. Kỹ năng thảo luận gồm ngôn ngữ cơ thể, ngôn ngữ dùng trong thảo luận, khả năng kết nối với các thành viên trong nhóm, trích dẫn nguồn và thái độ trong buổi thảo luận (biết lắng nghe, biết đáp lại và kết nối mọi người) (Xem Phụ lục 3). Mỗi nội dung được chia ra làm sáu cấp độ với mô tả cụ thể cho từng cấp độ. Mỗi học viên có một bảng chấm điểm dành riêng cho mình, trong đó giáo viên chấm thi sẽ đánh dấu các đặc điểm thể hiện của học viên, điểm thành phần, điểm tổng kết và những nhận xét khác bên dưới. Điều này giúp giáo viên chấm được chính xác hơn và cũng là cơ sở để giải đáp thắc mắc của học viên khi có khiếu nại. Riêng môn nói có một giáo viên điều phối tham gia ngồi chấm cùng trong một số buổi kiểm tra quá trình và tổng kết để thống nhất về thang điểm với giáo viên chấm chính.

Cũng vì đánh giá kỹ năng nói mang tính chủ quan nên trong bài kiểm tra tổng kết, do tính chất quan trọng là để quyết định học viên có đạt hay không, việc chấm điểm do hai giáo viên chấm, một giáo viên dạy Nghe Nói và một giáo viên dạy Đọc Viết. Giáo viên Đọc Viết là giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp đó. Giáo viên Nghe Nói là của một lớp khác để đảm bảo tính khách quan, giáo viên chấm theo khả năng thể hiện của học viên trong bài thi đó mà không bị ảnh hưởng bởi thể hiện của học viên trong suốt quá trình học. Giáo viên Nghe Nói là người có quyết định cuối cùng về điểm số của học viên. Hàng tuần các giáo viên có một buổi họp chuyên môn để thống nhất nội dung giảng dạy trong tuần và nhất là thống nhất về cách chấm điểm và thang điểm, tránh trường hợp người chấm “rẻ” người chấm “đắt”. Mặc dù cùng mang tính chất chủ quan, nhưng môn viết còn có bài lưu lại, môn nói thì thường là không có bài lưu nên các bài nói của học viên được quay lại giúp cho việc chấm được chính xác hơn. Tuy nhiên, do việc quay phim học viên khá là nhạy cảm nên không phải lúc nào cũng tiến hành được. Việc này đòi hỏi phải có sự đồng thuận của toàn bộ học viên trong nhóm và những người sở hữu hình ảnh của học viên phải tuân thủ quy tắc nghiêm ngặt về bảo mật thông tin cá nhân. Các đoạn ghi hình bài kiểm tra của học viên cũng được sử dụng trong các buổi họp chuyên môn của giáo viên để thống nhất về thang điểm (Xem Hình 2).

Hình 2. Ảnh chụp từ đoạn phim ghi lại hình ảnh buổi kiểm tra thảo luận nhóm

Nguồn: Dữ liệu hình ảnh của Pre-session 2018

Với tiêu chí lấy người học làm trung tâm và mục tiêu của kiểm tra quá trình là giúp học viên học hỏi lẫn nhau và tiến bộ, nên trong các bài kiểm tra quá trình, tôi cho các học viên nhận xét phần thể hiện của các bạn. Mỗi bạn sẽ được giao nhận xét ngẫu nhiên hai bạn và một tiểu mục ngẫu nhiên trong bảng đánh giá. Việc này giúp học viên làm quen với các tiêu chí đánh giá, học hỏi từ bạn bè và giúp giáo viên quản lý lớp học tốt hơn trong giờ kiểm tra.

3.4.3.     Tính liên kết giữa các môn học

Mặc dù khoá học Pre-session chỉ có hai môn học là Nghe Nói và Đọc Viết nhưng sự liên kết của hai môn học này rất cao. Cụ thể, bài thuyết trình cuối khoá chính là một phần trong bài viết cuối khoá của sinh viên. Trong bài kiểm tra quá trình, học viên thuyết trình ngắn trong 5 phút giới thiệu về đề tài của mình và các nguồn tài liệu mà mình sử dụng, đánh giá nguồn tài liệu và giải thích lý do tại sao mình lựa chọn tài liệu đó. Đó cũng chính là lý do vì sao bài kiểm tra cuối khoá cần có một giáo viên Đọc Viết chấm cùng để giúp giáo viên Nghe Nói kiểm duyệt về nội dung.

Phần thảo luận nhóm cũng là cơ hội để học viên thể hiện khả năng đọc học thuật (đọc phục vụ mục đích nghiên cứu) của mình. Các học viên được giao một chủ đề lớn để chuẩn bị. Ví dụ như: Giờ làm việc linh hoạt, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, Tránh thuế v.v. Tuy nhiên các câu hỏi cụ thể thì đến ngày thi học viên mới được biết và mỗi nhóm thảo luận có một bộ câu hỏi riêng. Ví dụ với chủ đề Trách nhiệm xã hội có thể có những câu hỏi chi tiết như: Với tư cách là khách hàng, bạn có lựa chọn các công ty có trách nhiệm xã hội cao hơn không? Các công ty đa quốc gia cần phải có các hành động “đền ơn” xã hội, bạn có đồng ý không? v.v. Chính vì vậy, nhiệm vụ của học viên là phải đọc thật sâu thật rộng về chủ đề được giao để khi bắt được bộ câu hỏi nào cũng có thể trả lời được ít nhiều. Câu hỏi chi tiết không được giao cho học viên chuẩn bị trước để tránh tình trạng buổi thảo luận thực chất chỉ là diễn lại những gì các bạn đã chuẩn bị từ trước. Học viên được phép mang tất cả tài liệu đã chuẩn bị vào phòng thi, nhưng không được sử dụng thiết bị điện tử. Trước khi bắt đầu buổi thảo luận chính thức, học viên có thời gian xem lại tài liệu mình đã chuẩn bị từ trước (Xem lại Hình 2).

3.5.           Trao đổi chuyên môn

Về công tác trao đổi chuyên môn, ngoài việc hàng tuần có một buổi họp chuyên môn như đã nói ở trên, việc dự giờ để đánh giá giáo viên cũng được tiến hành thường xuyên. Với giáo viên mới tuyển, việc dự giờ là bắt buộc. Nếu sau dự giờ phát hiện nhiều vấn đề cần phải khắc phục, giáo viên mới sẽ đi dự giờ một giáo viên khác để học hỏi, chuẩn bị cho giờ dự giờ thứ hai. Với giáo viên cũ, việc dự giờ được tiến hành ngẫu nhiên một số giáo viên, thường là giáo viên mới của năm trước sau dự giờ thấy có nhiều điểm cần khắc phục. Các giáo viên lâu năm nhiều kinh nghiệm thì tần suất dự giờ thấp hơn nhưng vẫn có dự giờ và nhận xét giờ giảng nhằm kiểm soát chất lượng giảng dạy.

Quy trình dự giờ được tiến hành như sau. Giáo viên được dự giờ được thông báo về giờ học mà mình sẽ được dự giờ. Giáo viên soạn giáo án chi tiết cho giờ học đó (Xem Phụ lục 4) và điền thông tin về giờ học vào Phiếu dự giờ giáo viên (Xem Phụ lục 5), trong đó ghi rõ mục đích của giờ học, mục tiêu mà giáo viên mong muốn học viên đạt được sau giờ học, lường trước một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến chất lượng và tiến độ của giờ học theo kế hoạch, ghi chú một số vấn đề mà giáo viên được dự giờ muốn giáo viên dự giờ đặc biệt lưu ý để góp ý. Giáo viên dự giờ sau đó ghi chép lại nhận xét về cấu trúc của giờ học, tương tác với học viên, sử dụng tài liệu và các nhận xét khác. Sau đó hai giáo viên gặp nhau để trao đổi cụ thể hơn những gì giáo viên dự giờ ghi chép được. Cuối cùng, giáo viên được dự giờ ghi lại nhận xét của mình sau khi đã đọc phần nhận xét và trao đổi với giáo viên được dự giờ. Giáo viên ghi rõ mình có đồng ý với ý kiến của giáo viên dự giờ không và có thể đưa ra những bài học kinh nghiệm mà bản thân tự rút ra được sau giờ học. Tất cả các nội dung này được ghi lại trong biên bản và lưu lại.

3.6.           Ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ cho việc quản lý khoá học

Phần này tôi không bàn đến việc sử dụng các trang thiết bị hiện đại trong giờ học mà nói đến các nền tảng được sử dụng để quản lý khoá học.

Các nền tảng ở đây được sử dụng để đảm bảo thống nhất nội dung dạy và học, chia sẻ nguồn tài liệu và thông tin liên lạc giữa hai kênh giáo viên với giáo viên và cán bộ quản lý chuyên môn của khoá học, và giáo viên với học viên.

Khoá học Pre-session sử dụng linh hoạt rất nhiều nền tảng khác nhau. Kênh thông tin giữa giáo viên và giáo viên được thiết kế trên nền tảng sharepoint (“một nền tảng web được phát triển bởi Microsoft nhằm hỗ trợ cho các tổ chức, doanh nghiệp lưu trữ và chia sẻ thông tin, quản lý tài liệu và thiết lập môi trường cộng tác giữa các cá nhân và nhóm” – sharepointvietnam.com). Tại đây, đội ngũ quản lý khoá học chia sẻ thời khoá biểu, chương trình học, các biểu mẫu, danh sách lớp, phiếu chấm điểm, đề thi, tài liệu giảng dạy v.v. cho giáo viên. Giáo viên cũng có thể tải các phiếu chấm điểm, biên bản cố vấn học tập, các tài liệu giáo viên tự soạn muốn chia sẻ cùng giáo viên khác v.v. lên nền tảng này.

Kênh thông tin giữa giáo viên và học viên được thiết kế trên nền tảng blackboard (“một nền tảng đầy đủ nhất về đào tạo từ xa” – www.sep.vn). Tại đây giáo viên có thể tải nội dung, tài liệu và đường dẫn cho từng giờ học. Tuỳ vào vai trò mà mỗi nhóm sẽ có quyền truy cập khác nhau. Nhân viên quản lý khóa học có quyền đưa ra thông báo chung cho toàn khoá học. Giáo viên có quyền truy cập vào lớp khác để tham khảo. Giáo viên có thể gửi email cho giáo viên khác và học viên của lớp mình cũng như lớp khác thông qua blackboard. Giáo viên cũng có thể đăng thông báo cho lớp mình. Học viên chỉ có quyền xem nội dung và tải tài liệu môn học xuống.

Việc nộp bài và chấm bài được thực hiên một nền tảng khác là e-Assignment, một nền tảng dành riêng cho việc nộp bài, chấm bài và nhận xét bài tập điện tử của học viên (www.edrawsoft.com).

4.     Những bài học kinh nghiệm từ học phần Nghe Nói của Pre-session có thể áp dụng với các học phần Nghe Nói của chuyên ngành TATM

Tôi nhận thấy chúng ta hoàn toàn có thể học tập kinh nghiệm của khoá học này cho học phần Nghe Nói của chuyên ngành TATM vì một số điểm tương đồng giữa đối tượng học viên và mục tiêu khoá học.

Thứ nhất, về khả năng ngôn ngữ, tuy học viên của Pre-session có cao hơn về trình độ học vấn (cao học) so với sinh viên chuyên ngành TATM, nhưng tiêu chí xét tuyển đầu vào khá tương đồng nhau. Theo Yêu cầu về chuẩn tiếng Anh dành cho sinh viên quốc tế của trường Đại học Southampton năm 2019 thì học viên cao học chuyên ngành kinh tế phải đạt điểm trung bình 6,5, trong đó Nghe và Nói ít nhất đạt 6, và Đọc và Viết ít nhất đạt 6,5. Học viên của Pre-session là những học viên bị thiếu 0.5 đến 1 điểm cho một hoặc hơn đối với các phần thi Nghe, Nói, Đọc và Viết của bài kiểm tra tiếng Anh IELTS (xem hình 3). Trong khi đó tiêu chuẩn xét tuyển thẳng đối với sinh viên Khoa TATM là điểm IELTS từ 6,5 trở lên (theo Đại học Ngoại thương, 2019). Nên nếu chỉ xét về khả năng tiếng Anh, sinh viên TATM có phần nhỉnh hơn học viên Pre-session.

Hình 3. Điểm tiếng Anh IELTS khi bắt đầu khoá học của học viên Pre-session

Nguồn: Trang nội bộ của Pre-session 2018

Thứ hai, một trong những mục tiêu đào tạo của Khoa TATM cũng là giúp sinh viên ra trường có vốn kỹ năng tiếng Anh giao tiếp tốt trong môi trường có tiếp xúc với người nước ngoài, có kiến thức về văn hoá của các nước nói tiếng Anh và có khả năng học cao hơn về chuyên ngành tiếng Anh hoặc Thương mại tại các nước đang nói tiếng Anh.

Dựa vào các đặc điểm tương đồng này, tôi thấy chúng ta có thể học tập và áp dụng một số nội dung của khoá học Pre-session cụ thể như sau.

4.1.           Mục tiêu môn học

Xét về mục tiêu, chúng ta có một điểm tương đồng với Pre-session là cũng xét đầu vào dựa trên các bài kiểm tra trình độ tiếng Anh theo chuẩn quốc tế (các chứng chỉ tiếng Anh quốc tế) hoặc quốc gia (kỳ thi trung học phổ thông quốc gia). Tuy nhiên, mục đích đào tạo cuối khoá đều là giúp sinh viên có khả năng sử dụng tiếng Anh thành thạo trong môi trường học thuật, công việc hoặc giao tiếp hàng ngày có sử dụng tiếng Anh hoàn toàn, chứ không đơn thuần là luyện thi lấy chứng chỉ.

Mục tiêu môn học của phần Nghe của Pre-session khá giống với môn Nghe 2 của TATM (nghe bài giảng học thuật và ghi chép vắn tắt) (Theo Khoa Tiếng Anh Thương mại, 2017a, tr.1). Phần Nói tương tự như môn Nói 1 của TATM (thuyết trình hiệu quả) (Theo Khoa Tiếng Anh Thương mại, 2017b, tr.1).

4.2.           Xây dựng chi tiết học phần môn học và tài liệu học tập

Hiện tại các môn học nghe nói của TATM tương đối giống Pre-session ở chỗ tập trung vào kỹ năng nhỏ phục vụ mục tiêu lớn. Cụ thể, môn Nói 1 tập trung vào cách bắt đầu bài thuyết trình, liên kết các phần, xây dựng kết cấu của phần nội dung chính, sử dụng hình ảnh bổ trợ, ngôn ngữ cơ thể, cách kết bài và trả lời câu hỏi. Tuy nhiên, chương trình học vẫn còn phụ thuộc vào một số lượng rất hạn chế tài liệu tham khảo, vẫn theo mô hình sử dụng một sách giáo khoa chính và các tài liệu bổ trợ. Trong mục tài liệu tham khảo có nhắc đến các nguồn tài liệu khác nhưng không cụ thể và không được sử dụng trong bài giảng chính thức (theo Khoa Tiếng Anh Thương mại, 2017b, tr.2-5). Nội dung bài giảng đi sát sách giáo khoa chính và thực hiện mục tiêu của giáo trình đó. Điều này tương tự với môn Nghe 2 (theo Khoa Tiếng Anh Thương mại, 2017c). Vì vậy, chúng ta có thể cụ thể hoá nguồn tài liệu tham khảo phong phú từ bên ngoài để đạt được mục tiêu cụ thể của giờ học đó, thay vì lần lượt đi hết các bài học của một giáo trình, để tăng tính sáng tạo cho giảng viên và hướng dẫn sinh viên tự tìm tòi khám phá. Tuy nhiên, việc làm này cần nhiều thời gian và nhân lực nên khoa có thể xem xét chuyển đổi dần dần.

4.3.           Phương pháp giảng dạy và hoạt động giảng dạy

Tôi chưa có dịp dự giờ các giờ học nghe nói của TATM trong 4 năm trở lại đây nhưng tôi tin các giảng viên luôn phấn đấu trau dồi kiến thức và kỹ năng nhằm làm phong phú nội dung bài giảng của mình. Các giảng viên nên tiếp tục phát huy hơn nữa tính đa dạng của các hoạt động học, thay đổi các hoạt động học liên tục với khoảng thời gian tối đa là 20 phút cho một hoạt động. Việc phản hồi tiếp tục được thực hiện thường xuyên hơn, ứng dụng phản hồi “ba lăng kính” – phản hồi tại chỗ - ghi chép điểm mạnh yếu của học viên – thay đổi nội dung giờ học tiếp theo phù hợp với tình hình hiện tại của học viên.

Chương trình học có lẽ cũng nên xem xét đan xen một số buổi trải nghiệm thực tế, cho sinh viên đi nghe giảng bằng tiếng Anh và tập ghi chép vắn tắt. Nếu không thể bố trí được một buổi một tuần thì có thể một vài buổi trong toàn bộ khoá học. Nếu không thể mời diễn giả thì có thể cho các em dự giờ một giờ giảng nào đó bằng tiếng Anh của các anh chị khoá trên (như giờ giảng về Lý thuyết tiếng, giờ giảng về môn Tài chính, Kinh tế, Kinh doanh quốc tế v.v.), mục đích trọng tâm không phải là nhớ kiến thức giống các anh chị mà cốt luyện kỹ năng nghe và sắp xếp ghi chép của mình một cách khoa học. Sau buổi trải nghiệm cần có thảo luận để rút kinh nghiệm về kỹ năng nghe giảng và ghi chép vắn tắt. Như vậy, sinh viên có cơ hội cọ xát với môi trường thực tế mà mình phải trải qua sau này.

 Mô hình tư vấn cá nhân rất thú vị và cần thiết, đảm bảo đi sâu đi sát nhu cầu và sự tiến bộ của từng sinh viên. Nếu không có điều kiện về mặt thời gian và nhân lực để bố trí làm với tần suất như Pre-session thì có thể rút ngắn thời lượng xuống một vài buổi tư vấn cho toàn khoá học. Hoặc có thể bố trí riêng một nhân lực gọi là cố vấn học tập làm nhiệm vụ này cho nhiều môn và nộp lại biên bản cho giáo viên phụ trách chính. Việc này có thể không đảm bảo nội dung trao đổi sát với chuyên môn, nhưng lại đảm bảo yếu tố khách quan do sinh viên sẽ thoải mái trao đổi với một bên thứ ba hơn là chính giáo viên đang giảng dạy mình. Và việc này cũng giúp kiểm soát chất lượng giảng dạy. Việc học trải nghiệm và mời diễn giả đã từng được một số giảng viên của khoa tiến hành trong thời gian tôi còn giảng dạy. Ví dụ như môn Xin việc (job interview) vào thời điểm năm 2008-2011. Có thể tiến hành một buổi trải nghiệm, hoặc nhiều hơn càng tốt. Ở đây tôi không dám kỳ vọng giảng viên nào cũng phải sắp xếp mời diễn giả nhưng việc đi dự giờ lớp khác là hoàn toàn khả thi vì tận dụng bài giảng có sẵn. Tất nhiên để làm được việc đó đòi hỏi quyết tâm thay đổi và can thiệp của người làm chương trình và người quản lý.

Việc cho học sinh tự tìm tư liệu và thiết kế bài tập nghe cũng là một điểm thú vị mà các giảng viên TATM cần tích cực phát huy.

4.4.           Kiểm tra đánh giá

4.4.1.     Đánh giá quá trình và đánh giá tổng kết

Theo quy định của trường Đại học Ngoại thương thì sinh viên cần có điểm chuyên cần và điểm giữa kỳ ngoài điểm cuối khoá. Hai đầu điểm này mặc dù về hình thức có vẻ giống như đánh giá quá trình; tuy nhiên, xét về bản chất vẫn mang tính tổng kết. Ví dụ bài kiểm tra giữa khoá là đánh giá tổng kết nội dung học của một nửa khoá học. Với điểm chuyên cần ngoài việc dựa vào sự chuyên cần đến lớp của học viên, một số giảng viên (trong đó có tôi) cũng giao thêm một bài tập nào đó để làm lấy điểm. Tuy nhiên, về mục đích vẫn mang tính tổng kết. Các giảng viên có thể kết hợp các bài kiểm tra nhỏ này để sử dụng vào mục đích đánh giá quá trình, tìm hiểu điểm mạnh yếu của sinh viên để thay đổi chương trình và trọng tâm bài giảng. Ngoài các bài kiểm tra nhỏ lấy điểm cần triển khai các bài kiểm tra “như thật” mà không lấy điểm, mục đích chỉ để sinh viên luyện tập và giảng viên đánh giá sự tiến bộ của sinh viên.

4.4.2.     Chấm điểm

Để đảm bảo tính khách quan cho môn Nghe có lẽ chúng ta vẫn nên thiết kế các câu hỏi trắc nghiệm thay vì tự luận vì việc ghi chép vắn tắt như thế nào cho hợp lý mang tính chủ quan rất cao, trong khi mục đích chính của môn Nghe bài giảng và ghi chép vắn tắt trọng tâm vẫn là sinh viên hiểu được nội dung bài giảng và có thể sử dụng phần ghi chép của mình để ôn tập. Sinh viên có thể ghi chép vắn tắt ra nháp theo cách mà sinh viên dễ hiểu nhất và từ thông tin đó trả lời tốt các câu hỏi nghe hiểu. Hiện tại bài kiểm tra của môn Note-taking của TATM là nghe một bài giảng và ghi chép vắn tắt lại theo dạng dàn ý được gợi ý sẵn trong đáp án. Tôi cũng nhận thấy phần Note-taking của Southampton hợp lý hơn. Sinh viên được đưa ra mọi “ngón nghề” để take notes tốt: như viết tắt, sử dụng mindmapping (sơ đồ), sử dụng bullet point (gạch đầu dòng), colour coding (dùng màu khác nhau cho các nội dung khác nhau). Nhưng mục đích cuối cùng vẫn là khi đọc lại phần ghi chép của mình, sinh viên nhớ lại được kiến thức và có thể sử dụng nội dung đó để trả lời các câu hỏi. Nên bài thi của sinh viên vẫn tập trung vào việc sinh viên có trả lời được các câu hỏi trắc nghiệm hoặc câu hỏi mở về nội dung bài giảng vừa nghe hay không. Vì mỗi sinh viên sẽ có một chiến lược ghi chép riêng. Có em vẽ sơ đồ, có em gạch đầu dòng v.v.

Các môn mang tính chủ quan cao như Viết và Nói nên có hai giáo viên chấm và nếu có thể nên bố trí giáo viên của lớp khác chấm. Tuy nhiên, các giáo viên chấm phải thống nhất về nội dung đánh giá và thang điểm. Ngoài ra, cũng nên sắp xếp một giáo viên điều phối (thường là giáo viên ở cấp quản lý cao hơn như trưởng nhóm, tổ trưởng bộ môn) tham gia chấm ngẫu nhiên một vài bài để thống nhất về thang điểm.

4.4.3.     Tính liên kết giữa các môn học

Về điểm này, Khoa TATM có lợi thế hơn rất nhiều do sinh viên học song song nhiều môn nên việc kết hợp này sẽ rất phong phú và thuận tiện. Ví dụ sinh viên có thể thuyết trình luôn bài mình chuẩn bị cho môn học khác như Ngữ âm, Văn học, Tài chính, Kinh tế v.v.

4.5.           Trao đổi chuyên môn

Hiện tại Khoa TATM vẫn tiến hành dự giờ giảng viên mỗi khi giảng viên hết hợp đồng lao động (như thử việc, tập sự, hợp đồng có thời hạn 1 năm, 3 năm v.v.). Ngoài ra còn có đánh giá môn học và đánh giá giảng viên từ phía học viên. Tuy nhiên, việc đánh giá giáo viên nên được tiến hành thường xuyên hơn nữa trong mỗi một môn học. Do hạn chế về mặt thời gian và nhân lực, việc làm này có thể tiến hành ngẫu nhiên một vài giáo viên trong một học kỳ. Việc sinh viên đánh giá giảng viên cũng là một cơ sở để cải thiện chất lượng môn học nhưng sẽ sát thực tế hơn khi có giáo viên phụ trách môn dự giờ và đánh giá về chuyên môn. Việc đánh giá giờ học nên được cả hai phía nhìn nhận theo hướng xây dựng. Mục tiêu để cải thiện chất lượng môn học hơn nữa, bên cạnh đánh giá để xếp loại giáo viên và xét giáo viên có đủ điều kiện để ký hợp đồng tiếp hay không. Các giảng viên dự giờ vừa có vai trò đánh giá, góp ý, vừa có vai trò học hỏi chuyên môn. Việc tiến hành cho một số giảng viên đi dự giờ các giảng viên khác cũng là một việc rất nên làm. Tuy nhiên, cần lưu ý nội dung đánh giá và những hoạt động sau khi dự giờ cần hết sức cụ thể mới có thể phát huy tối đa mục đích của dự giờ và đánh giá giờ giảng.

4.6.           Ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ cho việc quản lý khoá học

Tôi không phải là chuyên gia về công nghệ nên với vai trò là người sử dụng công nghệ, tôi nhận thấy việc ứng dụng các nền tảng thật sự cần thiết vì rất nhiều lý do.

Thứ  nhất, việc sử dụng chung một nền tảng giúp cho việc quản lý dữ liệu khoá học được tốt hơn, và việc trao đổi thông tin giữa người quản lý với giáo viên, giữa giáo viên với giáo viên, giữa giáo viên với học sinh cũng nhanh chóng và thuận tiện hơn. Thứ hai, tài liệu môn học hiện nay ngày càng phong phú, nhất là với những môn thực hành ngoại ngữ. Tài liệu không chỉ đơn giản là một vài cuốn sách hay một vài trang in bài tập, bài đọc, mà là cả một kho dữ liệu khổng lồ các tài liệu đọc, các file âm thanh, hình ảnh. Thứ ba, việc làm bài tập cũng không dừng lại ở việc đọc và viết đáp án mà là những dự án lớn tích hợp truyền thông đa phương tiện. Việc trao đổi môn học không đơn giản là cho điểm mà cần sự tương tác qua lại giữa giảng viên và sinh viên, giữa sinh viên với sinh viên. Nhất là trong bối cảnh chúng ta đang tích cực phát huy hướng giảng dạy lấy người học làm trung tâm, đánh giá quá trình và phản hồi tích cực.

5.      Kết luận

Dù ở hai đất nước khác nhau với đối tượng sinh viên khác nhau và không cùng trình độ, nhưng có rất nhiều điểm tương đồng giữa khoá học Pre-session của trường Southampton và các môn thực hành tiếng của Khoa TATM. Sinh viên chuyên ngành TATM tuy có trình độ học vấn thấp hơn (mới tốt nghiệp phổ thông) so với sinh viên Pre-session (đã tốt nghiệp đại học), nhưng xét về trình độ tiếng Anh thì có phần nhỉnh hơn sinh viên Pre-session một chút (do điểm đầu vào của TATM tương đương 6,5, trong khi học viên Pre-session có một hoặc hơn các điểm thành phần giao động từ 5,5 đến 6 cho). Mục tiêu môn học của cả hai đối tượng đều là giúp học viên có kỹ năng giao tiếp tiếng Anh tốt trong môi trường học thuật.

Chính vì vậy, Khoa TATM hoàn toàn có thể học hỏi từ khoá Pre-session trong việc xây dựng chi tiết học phần môn học, phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá, trao đổi chuyên môn và ứng dụng khoa học công nghệ. Về xây dựng chi tiết học phần môn học, chúng ta nên mở rộng hơn nữa về tài liệu tham khảo, thay vì bám sát vào một giáo trình. Về phương pháp giảng dạy, các giảng viên tiếp tục duy trì việc đa dạng hoá các hoạt động học tập, thay đổi hoạt động học tập liên tục trong giờ học để thu hút sự tập trung. Các giảng viên phụ trách môn cũng có thể xem xét tiến hành hoạt động tư vấn cá nhân để hiểu rõ hơn nữa về từng học viên. Việc cho sinh viên tự thiết kế bài tập cũng là một giải pháp hay để phát huy tính tự chủ của sinh viên. Về kiểm tra đánh giá, nên có sự kết hợp giữa kiểm tra quá trình và kiểm tra tổng kết. Có thể tiến hành một số bài kiểm tra chỉ có nhận xét chứ không cho điểm để sinh viên và giảng viên hiểu điểm mạnh yếu của sinh viên. Các bài giữa kỳ không đơn giản là tổng kết nội dung học của một nửa học kỳ mà là một yếu tố để giảng viên theo dõi sự tiến bộ của sinh viên. Việc chấm bài nên có sự trao đổi thống nhất giữa các giảng viên dạy chung một bộ môn và/hoặc chỉ đạo thống nhất từ trưởng nhóm/tổ trưởng bộ môn, tránh tình trạng không công bằng vì sinh viên “rơi vào tay” giảng viên nào hay chấm “đắt” hoặc “rẻ”. Chúng ta cũng nên tăng cường tính liên kết giữa các môn học để giúp sinh viên luyện tập được nhiều hơn các kỹ năng thực hành tiếng và củng cố kiến thức của các môn học khác. Việc làm này cũng giúp giảm tải cho sinh viên và giảng viên. Về trao đổi chuyên môn, việc dự giờ cần tiến hành thường xuyên hơn, ít nhất là ngẫu nhiên một giáo viên/một môn học/một học kỳ, nhất là những giảng viên lần đầu đứng lớp môn học đó. Việc trao đổi góp ý sau đó được làm nghiêm túc và cụ thể nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy của môn học đó. Cuối cùng, đã đến lúc chúng ta xem xét đưa vào sử dụng các nền tảng ứng dụng cho việc dạy và học để đảm bảo tính thống nhất, ít nhất là với một môn học, và sau này là toàn khoa và toàn trường.

Tất cả những việc làm này đều không thể tiến hành cải thiện trong ngày một ngày hai, hơn nữa nó cũng đòi hỏi một lượng nhân lực đáng kể. Hơn nữa, một số hạng mục cần có sự chung tay của nhà trường và các phòng ban khác. Tuy nhiên, tôi thiết nghĩ nếu chúng ta có lộ trình để thay đổi từ những việc nhỏ dễ làm cho đến những việc có quy mô lớn hơn thì chắc chắn cũng đem lại hiệu quả đáng kể.

Tài liệu tham khảo

  1. Brookhart, S (2017), How to give effective feedback to your students, 2nd ASCD.
  2. Hannafin, M. J. & Hannafin, K. M (2010), Cognition and student-centred, web-based learning: Issues and implications for research and theory, In Learning and instruction in the digital age (tr. 11-23), Springer US.
  3. Jones, C (2005), Assessment for Learning, Learning and Skills Development Agency (now the Learning and Skills Network).
  4. Jones, Leo (2007), The Student-Centred Classroom, Cambridge University Press.
  5. Khoa Tiếng Anh Thương mại (2013), Khung chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ. Trường Đại học Ngoại thương.
  6. Khoa Tiếng Anh Thương mại (2017a), Đề cương chi tiết học phần Nghe 2 TAN206, Trường Đại học Ngoại thương.
  7. Khoa Tiếng Anh Thương mại (2017b), Đề cương chi tiết học phần Nói 1 TAN203, Trường Đại học Ngoại thương.
  8. Khoa Tiếng Anh Thương mại (2017c), Đề cương chi tiết học phần Nói 2 TAN204, Trường Đại học Ngoại thương.
  9. Nunan, D (1988), The Learner-Centred Curriculum: A Study in Second Language Teaching, Cambridge University Press.
  10. Pregent, R (1994), Charting Your Course: How to Prepare to Teach More Effectively, Magna Publications, Inc.
  11. Scriven, M (1966), The Methodology of Evaluation, Social Science Education Consortium, Purdue University, Lafayette, Indiana.
  12. com, Retrieved on 10/06/2019.
  13. Trang nội bộ của Pre-session 2018.
  14. Trường Đại học Ngoại thương (2019), Thông báo xét tuyển vào hệ đại học chính quy năm 2019, Phòng Quản lý Đào tạo, Trường Đại học Ngoại thương.
  15. University of Southampton (2018a), University of Southampton 2018 Pre-sessional Course A 2018 Listening and Speaking Syllabus, University of Southampton.
  16. University of Southampton (2018b), University of Southampton 2018 Pre-sessional Programmes – Tutor Handbook, University of Southampton.
  17. William, D (2004), Keeping learning on track: integrating assessment with instruction, International Association for Educational Assessment, Philadelphia.
  18. William, D (2007), Five “Key Strategies” for Effective Formative Assessment, The National Council of Teachers of Mathematics, Reston, United States.
  19. Wilson, K. and Korn, J. H (2007), Attention During Lectures: Beyond Ten Minutes, Teaching of Spychology, 34(2): 85-89.
  20. edrawsoft.com, Retrieved on 19/06/2019.
  21. sep.vn, Retrieved on 19/06/2019.

 

 

[1] Trường Đại học Southampton, Vương quốc Anh, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng túi polymer của khách du lịch quốc tế tại Nha Trang

Lê Chí Công[1]

Hoàng Thị Thu Phương[2]

Tóm tắt

Nghiên cứu dựa trên nền tảng lý thuyết TPB và phân tích ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau đến ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường và ý định sử dụng túi polymer. Một mẫu nghiên cứu thuận tiện với 250/260 phiếu câu hỏi hợp lệ đã được đưa vào phân tích. Nghiên cứu sử dụng phầm mềm SmartPLS và mô hình PLS-SEM để đánh giá độ tin cậy, giá trị phân biệt, giá trị hội tụ của thang đo, kiểm định mối quan hệ giữa các khái niệm trong mô hình đo lường. Kết quả nghiên cứu cho thấy vai trò quan trọng của thái độ, chuẩn chủ quan, kiểm soát hành vi nhận thức đến ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường và ý định sử dụng túi polymer của du khách quốc tế. Đồng thời, kết quả nghiên cứu cung cấp thông tin thực sự hữu ích cho các công ty, quản lý ngành du lịch trong việc xây dựng chính sách gia tăng sử dụng túi thân thiện với môi trường và hạn chế sử dụng túi polymer.

Từ khóa:  Ý định; polymer; Nha Trang

Abstract

The paper is based on the theoretical of TPB and the analyzing effects of different factors on the intention to use environmentally friendly bags and to use polymer bags. The convenient samples 250/260 questionnaires were analysed. This paper uses SmartPLS software and PLS-SEM model so that to assess reliability, discriminant, convergence value of scale, tests the relationship between concepts in the measurement model. The research results show the important role of attitudes, subjective norms, and perception of behavior control to the intention of using environmentally friendly bags to use polymer bags of international visitors. By the research finding, the paper provides really useful information for companies, managing the tourism industry in developing policies to increase the use of environmentally friendly bags and restrict the use of polymer bags.

Keywords: Intention; polymer; Nha Trang

  1. Giới thiệu

Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội, nhu cầu con người tăng lên với việc tiêu dùng các sản phẩm đảm bảo sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống. Con người quan tâm nhiều hơn đến sức khỏe bởi có quá nhiều yếu tố bên ngoài tác động làm tăng nguy cơ bệnh tật và thách thức đến nâng cao tuổi thọ của cộng đồng. Ô nhiễm môi trường và sử dụng quá mức các sản phẩm không thân thiện với môi trường đã ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và tuổi thọ của cộng đồng (Maichum, 2016). 

Túi nhựa, chai nhựa đang chiếm số lượng lớn trên trái đất nhưng lại mất tới hàng ngàn năm để phân hủy (Maichum, 2016). Các vấn đề về môi trường và các chất thải nhựa đang là thách thức mô hình phát triển bền vững của nhiều quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, tiêu dùng xanh đã và đang trở thành một chủ đề quan trọng, thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và quản lý. Nghiên cứu của Trần Thị Thùy Linh (2018) với các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh trong du lịch - trường hợp khách du lịch quốc tế đến thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Vũ Hùng, Nguyễn Hùng Cường và Hoàng Lương Vinh (2015) sử dụng lý thuyết TPB để giải thích phong cách sống và tiêu dùng xanh. Nghiên cứu của Hồ Huy Tựu và Huỳnh Thị Ngọc Diệp (2013) các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh cho dòng sản phẩm tốt cho sức khỏe (cá Basa). Dù vậy, các nghiên cứu trước đây vẫn chưa tập trung vào giải thích ý định của từng hành vi trong tiêu dùng xanh của du khách, một trong số đó là ý định giảm thiểu sử dụng túi polymer của họ.

Nha Trang - Khánh Hòa một trong những địa phương có tài nguyên du lịch biển phong phú và sự phát triển du lịch đứng đầu cả nước. Để du lịch Nha Trang - Khánh Hòa ngày càng phát triển mang tính bền vững; nâng cao khả năng thu hút khách quốc tế đến du lịch và quảng bá hình ảnh thành phố Văn minh - Thân thiện - An toàn - Sạch đẹp là một mục tiêu lớn đặt ra. Với mong muốn khuyến khích du khách tiêu dùng xanh, nói không với việc sử dụng các chất thải khó phân hủy như polymer, mang lại màu xanh sạch đẹp nhiều hơn cho thành phố. Trên cơ sở lý thuyết hành vi có dự tính, bài nghiên cứu này sẽ kiểm định các nguyên nhân chính gây nên ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường và ý định sử dụng túi polymer. Các yếu tố chính bao gồm thái độ, chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi cảm nhận làm tăng ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường. Trong khi đó ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường càng tăng thì nỗ lực giảm sử dụng túi polymer của cá nhân sẽ tăng lên.

  1. Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu

2.1. Lý thuyết hành vi dự định     

Lý thuyết TPB là sự mở rộng của lý thuyết hành động hợp lý (TRA; Fishbein và Ajzen; 1975). TPB cho rằng thái độ đối với hành vi, chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi cảm nhận là ba yếu tố quyết định khái niệm độc lập về ý định hành vi (Ajzen, 1991). Lý thuyết TPB (Ajzen,1991) là một trong những mô hình áp dụng rộng rãi để giải thích hành vi tiêu dùng xanh, thể hiện thông qua nghiên cứu của Đỗ Phương Linh (2018), Lê Chí Công (2017), Ari và Yilmaz (2015), Maichum và cộng sự (2016). Dưới đây là một số khái niệm có liên quan trong mô hình nghiên cứu.

Hành vi tiêu dùng được hiểu là việc tìm kiếm, mua, sử dụng, đánh giá và loại bỏ các sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn sẽ thỏa mãn nhu cầu của họ (Ajzen, 1991). Ý định hành vi là đại diện của mặt nhận thức về sự sẵn sàng để cá nhân thực hiện một hành vi nhất định (Ajzen, 1991). Thái độ đối với hành vi là tập hợp những niềm tin, ảnh hưởng và ý định về hành vi của một người đối với các hoạt động liên quan (Ajzen, 1991; Schultz và cộng sự, 2004). Chuẩn chủ quan là ảnh hưởng của những người quan trọng (gia đình, bạn bè, đồng nghiệp) đến việc thực hiện ý định hành vi cụ thể (Ajzen, 1991; Ari & Yilmaz, 2015; Brasava & Asnate Kirse, 2017). Kiểm soát hành vi cảm nhận  là nhận thức của cá nhân về việc dễ hay khó khi thực hiện hành vi cụ thể (Ajzen, 1991; Ari & Yilmaz, 2015; Brasava & Asnate Kirse, 2017).

Ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường là nỗ lực của các cá nhân trong việc thực hiện hành vi gia tăng sử dụng túi/sản phẩm thân thiện với môi trường trong khi ý định giảm thiểu sử dụng túi polymer là nỗ lực của cá nhân trong việc thực hiện hành vi giảm thiểu sử dụng túi polymer. Trên cơ sở đối tượng của nghiên cứu là ý định gia tăng sử dụng túi thân thiện với môi trường và giảm thiểu ý định sử dụng túi polymer, nghiên cứu lựa chọn lý thuyết hành vi có dự định (Ajzen, 1991) là lý thuyết nền tảng cho nghiên cứu.

 

 

 

 

 

 

2.2. Ý định sử dụng túi polymer và các nhân tố ảnh hưởng

Hành vi tiêu dùng xanh là thuật ngữ để chỉ việc mua sắm các sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường (Schultz và cộng sự, 2004). Tiêu dùng xanh còn là việc xem xét, cân nhắc các vấn đề môi trường đồng thời đánh giá những tiêu chí về giá cả và hiệu quả sử dụng khi quyết định mua sắm, sao cho giảm thiểu nhiều nhất tác động tới sức khỏe và môi trường. Vòng đời của một sản phẩm bao gồm sản xuất, vẩn chuyển, sử dụng và tái sinh hoặc thải bỏ. Do đó nếu chúng ta muốn tiêu dùng xanh có hiệu quả thì cần chú trọng vào một hay tất cả tác động môi trường bất lợi trong toàn bộ vòng đời của chúng (Kirse, 2017).

2.2.1. Thái độ đối với việc sử dụng túi thân thiện với môi trường

Theo Ajzen (1991), thái độ là trạng thái tâm lý được hình thành qua kinh nghiệm, có khả năng điều chỉnh và ảnh hưởng tới phản ứng của cá nhân. Ngoài ra, thái độ còn được định nghĩa là đánh giá của cá nhân về kết quả thu được từ việc thực hiện hành vi. Thái độ đối với việc sử dụng túi thân thiện với môi trường có ảnh hưởng tích cực đến ý định hành vi (Kast & Tanner, 2003; Verbeke, 2004). Vì vậy, giả thuyết nghiên cứu được đề xuất là:

         H1: Thái độ tiêu cực đối với việc sử dụng túi polymer của khách du lịch quốc tế có ảnh hưởng tích cực đến ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường của họ.

2.2.2. Chuẩn chủ quan và ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường

Chuẩn chủ quan được xem là một yếu tố quyết định thứ hai về ý định hành vi Ajzen (1991). Chuẩn chủ quan hay còn gọi là ảnh hưởng xã hội là nhận thức của những người quan trọng (người thân, bạn bè, đồng nghiệp, đối tác, phương tiện truyền thông) tác động đến cá nhân thực hiện/không thực hiện hành vi. Mức độ thân thiết của những người quan trọng càng cao thì sẽ càng tác động mạnh mẽ đến hành vi của cá nhân đó (Ari và Yilmaz, 2015). Vì vậy, giả thuyết H2 được đề xuất như sau:

H2: Chuẩn chủ quan liên quan đến việc hạn chế sử dụng túi polymer có ảnh hưởng tích cực đến hành vi sử dụng túi thân thiện môi trường của du khách.

2.2.3. Kiểm soát hành vi và ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường

Kiểm soát hành vi cảm nhận là một yếu tố dự báo chính về hành vi và ý định hành vi trong lý thuyết hành vi dự định (Ajzen, 1991). Kiểm soát hành vi được định nghĩa là cảm nhận của cá nhân về việc dễ hay khó khi thực hiện hành vi. Kiểm soát hành vi cảm nhận cũng có thể được xem như nhận thức của cá nhân về tầm kiểm soát của họ đối với hành vi (Ajzen, 1991). Kiểm soát hành vi cảm nhận của một cá nhân dễ dàng hơn khi họ có các cơ hội và những nguồn tài nguyên quan trọng (thời gian, tiền bạc, trí tuệ) (Madden và cộng sự, 1992). Straughan và Roberts (1999) trong nghiên cứu của mình lập luận rằng những người quan tâm đến môi trường sẽ thể hiện hành vi đối với môi trường tích cực nếu họ nhận thức được hành vi đó góp phần giải quyết vấn đề môi trường và có ý nghĩa thực tế. Vì vậy, giả thuyết về kiểm soát hành vi được đề xuất như sau:

H3: Khả năng kiểm soát hành vi trong sử dụng túi polymer có ảnh hưởng tích cực đến ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường của du khách.

2.2.4. Ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường và ý định giảm sử dụng túi polymer

Trong thực tế, du khách sử dụng túi polymer vì được các siêu thị và cửa hàng cung cấp miễn phí và dễ dàng tìm kiếm hay lấy chúng ở bất cứ đâu. Điều này hình thành nên thói quen sử dụng với tuần suất nhiều hơn. Vì vậy, muốn hạn chế ý định sử dụng túi polymer của du khách thì việc khuyến khích sử dụng nhiều loại túi thân thiên với môi trường như túi vải, túi giấy, túi đan bằng tre là hết sức cần thiết. Đồng thời, cơ quan có thẩm quyền nên ban hành các quy định cấm sử dụng túi polymer. Khi mỗi cá nhân gia tăng nhiều hơn ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường thì đồng thời cũng dần hạn chế được ý định sử dụng túi polymer (Air và Yilmaz, 2015). Có nhiều nghiên cứu trên thế giới đề cập đến ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường và hạn chế ý định sử dụng túi polymer. Maichum & cộng sự (2016) nghiên cứu ý định mua sản phẩm xanh của người tiêu dùng Thái Lan. Trong nghiên cứu Ajzen (1991) đã kiểm định mối quan hệ giữa ý định và hành vi thực tế. Các nghiên cứu đã chứng minh rằng ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường tác động tích cực và mạnh mẽ lên ý định giảm thiểu sử dụng túi polymer. Vì thế, giả thuyết H4 được tác giả đề xuất như sau:

H4: Ý định sử dụng túi thân thiện môi trường sẽ có tác động tích cực đến ý định giảm sử dụng túi polymer.

2.2.5. Mô hình nghiên cứu đề xuất

Hình 1. Mô hình nghiên cứu

  1. Phương pháp nghiên cứu

3.1. Đo lường các khái niệm

Thang đo lường sử dụng trong nghiên cứu này được kế thừa từ nghiên cứu của Ajzen (1991) và Ari & Yilmaz (2015). Cụ thể hơn, thang đo thái độ đối với hành vi gồm bốn mục hỏi, thang đo chuẩn chủ quan gồm hai mục hỏi và thang đo kiểm soát hành vi cảm nhận cũng gồm hai mục hỏi. Ba thang đo thái độ, chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi cảm nhận được kế thừa từ nghiên cứu của Ajzen (1991) và Ari & Yilmaz (2015). Thang đo ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường và ý định giảm thiểu sử dụng túi polymer gồm hai mục hỏi cho mỗi thang đo được kế thừa từ nghiên cứu của Ari & Yilmaz (2015). Thang đo Likert năm điểm với (1) là rất không đồng ý và (5) là rất đồng ý đã được sử dụng cho tất cả các mục hỏi nhằm đem đến sự dễ hiểu và đơn giản cho du khách trong quá trình thực hiện bảng khảo sát. 

3.2. Phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu

Nghiên cứu này sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi để thu thâp dữ liệu chi tiết với 250 khách du lịch quốc tế tại Nha Trang. Thời gian thực hiện khảo sát từ tháng 4 đến tháng 5 năm 2019. Mẫu nghiên cứu được chọn theo phương pháp hạn ngạch với 250 phiếu phát ra. Tỷ lệ phiếu đạt yêu cầu để đưa vào phân tích là 250/260 (83,3%) đã được đưa vào xử lý bằng phần mềm Smart PLS 3.2.7 dùng để phân tích dữ liệu bao gồm: kiểm định độ tin cậy, độ giá trị và hội tụ của thang đo cũng như biến quan sát; kiểm định giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu và SPSS 25.0 dùng để thu thập dữ liệu và xử lý số liệu trong thống kê mô tả.

Nghiên cứu sử dụng phần mềm Smart PLS và mô hình PLS-SEM giúp cho việc xử lý số liệu được hiệu quả và nhanh hơn với kỹ thuật phân tích độ tin cậy, giá trị phân biệt và giá trị hội tụ của thang đo. Ngoài ưu điểm xử lý dữ liệu nhanh và hiệu quả thì phương pháp này cũng giúp tác giả đơn giản hóa các bảng trong bài nghiên cứu nhưng vẩn đẩy đủ các chỉ số để phân tích.

  1. Kết quả nghiên cứu

4.1. Kết quả thu thập dữ liệu

Dữ liệu được thu thập trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 5 năm 2019. Đối tượng thu thập mẫu là khách du lịch quốc tế đến Nha Trang.

Về giới tính: kết quả khảo sát cho thấy trong 250 mẫu hợp lệ thu được có 156 nam chiếm tỉ lệ 62,4% và 94 nữ chiếm tỷ lệ 37,6%.

Về độ tuổi: độ tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất trong 250 mẫu là từ 30 tuổi đến 40 tuổi, có 135 người và chiếm 54%, từ 15 tuổi đến 29 tuổi có 100 người và chiếm 40%. Còn 2 nhóm tuổi từ 45 tuổi đến 59 tuổi và trên 60 tuổi chiếm tỉ lệ thấp hơn lần lượt với 4,4% và 1,6%. Điều đó cho thấy khách du lịch quốc tế đến Nha Trang du lịch chủ yếu là những người còn trẻ và trung niên còn người lớn tuổi thì chiếm tỉ lệ thấp.

Về tình trạng hôn nhân: trong tổng số 250 người được khảo sát thì có 155 đã kết hôn, chiếm 62%. Có 89 người độc thân và chiếm 35,6%, có 6 người có tình trạng khác như ly hôn, mẹ đơn thân chiếm 2,4%. Ta có thể thấy rằng những người đã kết hôn có xu hướng đi du lịch nhiều hơn, họ có thể đi hưởng tuần trăng mật, đi chơi cùng con cái của họ hoặc chỉ đơn giản là đi nghĩ dưởng cùng gia đình.

Về trình độ học vấn: chiếm tỉ lệ cao nhất với 78,8% trong tổng số 100% người trả lời có bằng cử nhân trở xuống, số lượng 197 người. Trình độ thạc sĩ có 51 người và chiếm 20,4%, trình độ tiến sĩ có 2 người và chiếm 0,8%. Dù tỉ lệ bằng dưới cử nhân cao nhất thế nhưng với con số 51/250 người trả lời có bằng thạc sĩ cho ta thấy những người có bằng cấp và tài năng trên thế giới cũng đang đến Nha Trang rất nhiều. Dự đoán được một sự phát triển cho nơi đây rất lớn.

Bảng 1. Thống kê đặc điểm nhân khẩu học trong mẫu nghiên cứu

Giới tính

Số lượng

Tỷ lệ

Tuổi

Số lượng

Tỷ lệ

Nam

156

62,4

Từ 15 đến 29

100

40,0

Nữ

94

37,6

Từ 30 đến 44

135

54,0

Tổng

250

100,0

Từ 45 đến 59

11

4,4

Trình độ học vấn

Số lượng

Tỷ lệ

Trên 60

4

1,6

Cử nhân trở xuống

197

78,8

Tổng

250

100,0

Thạc sĩ

51

20,4

Tình trạng hôn nhân

Số lượng

Tỷ lệ

Tiến sĩ

2

0,8

Độc thân

89

35,6

Tổng

250

100,0

Đã kết hôn

155

62,0

Khác

6

2,4

Tổng

250

100,0

 

   Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra của tác giả, 2019

 

4.2. Kiểm định thang đo: Độ tin cậy và độ giá trị

Các bước kiểm định độ tin cậy và độ giá trị thang đo trong nghiên cứu này dựa vào gợi ý của Hair & cộng sự (2016) và Hair & cộng sự (2017) gồm kiểm định độ nhất quán nội tại, độ giá trị hội tụ và độ giá trị phân biệt.

Kết quả kiểm định thang đo cho thấy các thang đo đều đạt độ nhất quán nội tại (Cronbach’s Alpha đều > 0,6 và độ tin cậy tổng hợp của các thang đo đều > 0,7). Đồng thời, các hệ số tải nhân số đều > 0,5 và phương sai trích đều lớn hơn 0,5. Do đó, các thang đo đề xuất đạt được độ giá trị hội tụ.

Bảng 2. Thang đo, độ tin cậy và độ giá trị

Cấu trúc khái niệm và mục hỏi

Hệ số tải nhân tố

Cronbach’s Alpha

CR

AVE

Thái độ

 

0.74

0.83

0.55

Túi nhựa hủy hoại môi trường.

0.55

 

 

 

Túi nhựa gây hại cho sinh vật sống trên cạn.

0.74

 

 

 

Túi nhựa gây ra chất thải độc hại.

0.84

 

 

 

Túi nhựa tăng nguy cơ ung thư.

0.80

 

 

 

Chuẩn chủ quan

 

0.71

0.87

0.77

Nếu hàng xóm của tôi sử dụng túi thân thiện với môi trường thay vì túi nhựa, tôi chắc chắn sử dụng túi thân thiện với môi trường.

0.84

 

 

 

Nếu những người quan trọng khác sử dụng túi thân thiện với môi trường thay vì túi nhựa, tôi chắc chắn sử dụng túi thân thiện với môi trường.

0.91

 

 

 

Kiểm soát hành vi cảm nhận

 

0.62

0.79

0.67

Các cửa hàng tạp hóa nên cấm bán trai cây và rau quả đựng trong túi nhựa cho khách hàng của họ.

0.61

 

 

 

Chính phủ nên cấm sử dụng túi nhựa.

0.98

 

 

 

Ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường (túi vải, túi giấy, …)

 

0.75

0.89

0.80

Tôi sẽ sử dụng ít túi nhựa hơn trong tương lai gần.

0.89

 

 

 

Tôi thích sử dụng túi thân thiện với môi trường thay vì túi nhựa.

0.90

 

 

 

Ý định giảm sử dụng túi nhựa

 

0.71

0.87

0.78

Nếu túi nhựa được cung cấp tại thu ngân nhưng phải trả phí, tôi sẽ sử dụng ít túi nhựa.

0.87

 

 

 

Nếu siêu thị giảm giá cho người mua hàng – người mà tự mua túi thân thiện với môi trường cho riêng mình, tôi sẽ sử dụng ít túi nhựa.

0.89

 

 

 

   Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra của tác giả, 2019

Kết quả phân tích cho thấy giá trị nhỏ nhất của căn bậc hai của AVE (0.74) lớn hơn giá trị lớn nhất của tương quan giữa các cặp khái niệm (0.35). Do đó, các cấu trúc khái niệm đạt được độ giá trị phân biệt.

Bảng 3. Tương quan giữa các cấu trúc khái niệm

 

Trung bình

1

2

3

4

5

1.TĐ

4.42

0.74

 

 

 

 

2.CCQ

4.32

0.11

0.88

 

 

 

3.KSHV

4.56

-0.06

0.01

0.82

 

 

4.YĐX

4.43

0.23

0.22

0.18

0.89

 

5.YĐPOLYMER

4.27

0.17

0.19

0.03

0.35

0.88

   Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra của tác giả, 2019

Ghi chú: Căn bậc hai của AVE nằm trên đường chéo chính

4.4. Kiểm định giả thuyết nghiên cứu

Hệ số VIF của các cấu trúc khái niệm đều < 3 cho thấy đa cộng tuyến giữa các biến giải thích (độc lập) không ảnh hưởng đến việc kiểm định giả thuyết nghiên cứu.

Nguồn: Kết quả nghiên cứu của tác giả, 2019

 

 

Hình 2. Kết quả nghiên cứu

 

 

0,19

 

0,35

 

0,19

 

0,22

 

 

 

 

Kết quả nghiên cứu cho thấy các hệ số đường dẫn liên quan đến ý định sử dụng đều có ý nghĩa với mức ý nghĩa 5%. Bên cạnh đó, kết quả kiểm định Bootstrap cũng cho thấy các hệ số này đều khác 0. Như vậy, nghiên cứu này kết luận các giả thuyết từ H1 đến H4 đều được ủng hộ về mặt dữ liệu. Thái độ có tác động mạnh nhất đến ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường của du khách với (ß = 0,22; p < 0,001). Bên cạnh đó, hai yếu tố chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi cảm nhận của du khách cũng có tác động tích cực tới ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường với hệ số ß đều bằng ß = 0,19 với mức ý nghĩa lần lượt là p < 0,001 và p < 0,01.

Bảng 3 cũng cho thấy được ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường có hệ số đường dẫn tác động mạnh đến ý định giảm thiểu sử dụng túi polymer (ß = 0,35, p < 0,001).

Kết quả phân tích cũng cho thấy ba biến số thái độ, chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi cảm nhận giải thích được 13% giá trị biến thiên của ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường, trong khi ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường giải thích được 12% giá trị biến thiên của ý định giảm thiểu sử dụng túi polymer.

 

Bảng 4. Kết quả kiểm định mô hình

Giả thuyết

Mô hình nghiên cứu

VIF

Kết luận

Std. ß

t–value

Khoảng giá trị (Bootstrap)

TĐ → YĐX

H1

0,22

4,07***

[0,12 – 0,29]

1,02

Ủng hộ

CCQ → YĐX

H2

0,19

3,22***

[0,09 – 0,29]

1,01

Ủng hộ

KSHV → YĐX

H3

0,19

2,56**

[0,04 – 0,27]

1,00

 

Ủng hộ

YĐX → YĐPOLYMER

H4

0,35

6,16***

[0,25 – 0,43]

1,00

 

Ủng hộ

Độ biến thiên (R2) 

 

R2YĐX = 0,13; R2YĐPOLYMER = 0,12

Độ lớn tác động (f2)

f2"YĐX = 0,05; f2KSHV " YĐX = 0,04;

f2CCQ " YĐX = 0,04; f2 YĐX " YĐPOLYMER = 0,14

 

 

 

Mức độ thích hợp của dự báo (Q2)

Q2 YĐX = 0,09; Q2YĐPOLYMER = 0,09

Ghi chú: *** p < 0.001; ** p < 0.01        Nguồn: Kết quả nghiên cứu của tác giả, 2019

  1. Kết luận và kiến nghị chính sách

5.1. Kết luận

Nghiên cứu này nhằm mục đích xác định và xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường và ý định giảm sử dụng túi polymer của du khách quốc tế đến Nha Trang. Nghiên cứu hướng đến giải quyết các mục tiêu cụ thể: tổng quan các tài liệu và cơ sở lý thuyết, xây dựng mô hình và các giả thuyết về ảnh hưởng của khách du lịch đến ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường và ý định giảm thiểu sử dụng túi polymer của họ; sau đó xây dựng bảng câu hỏi, điều tra và thu thâp dữ liệu thông qua bảng câu hỏi để xác định yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường và ý định giảm thiểu sử dụng túi polymer của du khách quốc tế; tiếp đến dựa vào kết quả có được phân tích, kiểm định, đánh giá thang đo và mô hình nghiên cứu; từ đó đề xuất một số chính sách, biện pháp tạo ra hiệu quả thực tiễn cho nghiên cứu.

Nghiên cứu được thực hiện với 250 mẫu khảo sát. Tác giả đã xây dựng thang đo dựa vào lý thuyết hành vi dự định. Theo đó, có ba thang đo tác động đến ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường và sau đó ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường đã tác động đến ý định giảm sử dụng túi polymer của khách du lịch. Ba thang đo tác động đến ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường bao gồm thái độ, chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi cảm nhận được chứng minh là có tác động tích cực đến ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường.

Như kì vọng, việc gia tăng ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường đã có tác động tích cực cũng như giảm thiểu được ý định sử dụng túi polymer. Nghiên cứu chứng minh và khẳng định mối quan hệ giữa thái độ, chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi cảm nhận điều mà các nghiên cứu trước đây đã thực hiện. Đồng thời, nghiên cứu cho thấy ý định hành vi tích cực này còn có thể tác động tích cực đến ý định giảm thiểu hành vi tiêu cực. Gia tăng ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường sẽ tác động tích cực đến giảm thiểu ý định sử dụng túi polymer. Do đó, nghiên cứu này có những đóng góp nhất định về cả mặt học thuật và thực tiễn.

5.2. Kiến nghị

Nghiên cứu đã phát triển cơ sở lý thuyết và tìm thấy chứng cứ tác động của các nhân tố thái độ, chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi cảm nhận đến ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường và cuối cùng là ý định sử dụng túi thân thiện với môi trường tác động tích cực đến ý định giảm thiểu sử dụng túi polymer của khách du lịch quốc tế tại Nha Trang. Với những kết quả có được ở trên, tác giả xin đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển hàm ý ứng dụng phục vụ cho việc thay đổi nhận thức thực tế của khách du lịch trong thời gian tới như sau:

Trước tiên, khách du lịch có xu hướng chấp hành tốt những quy định của nước sở tại nơi đến du lịch. Do đó, cơ quan nhà nước, nhà quản lý du lịch nên ban hành các quy định về việc hạn chế sử dụng túi polymer và có những quy tắc xử lý, xử phạt nghiêm minh cho những người có hành vi vi phạm. Chẳng hạn các cơ quan nhà nước nên lập ra những ban thanh tra môi trường cơ động có thể kiểm tra và xử lý nếu gặp phải các trường hợp vi phạm, đồng thời mỗi địa phương cũng xây dựng một trạm kiểm soát và xử lý giúp cho những người phát hiện trình báo. Từ những vụ việc và trường hợp được báo cáo và bắt gặp được, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ xử lý phù hợp tùy vào mức độ vi phạm (nếu vi phạm lần đầu thì sẽ cảnh cáo hoặc xử phạt bằng tiền, kể từ lần hai trở đi sẽ bị cấm hoặc hạn chế quyền sang Việt Nam).

Thứ hai, khách du lịch khi đến một đất nước thường có nhu cầu mua sắm cao, kể cả mua sắm tiêu dùng và mua sắm hàng hóa làm quà. Nếu như những nơi cung cấp sản phẩm du lịch (các siêu thị, cửa hàng, các trung tâm mua sắm hay chợ) không cung cấp túi polymer hoặc bắt trả thêm tiền cho việc sử dụng túi polymer thì cũng hạn chế được một phần lớn lượng túi polymer được đưa ra môi trường. Vì vậy, biện pháp tiếp theo là các cơ quan ban ngành, quản lý du lịch có thẩm quyền cần đưa ra quyết định thực hiện và ban hành về việc sử dụng túi polymer tại nơi cung cấp sản phẩm du lịch và nơi có nhiều khác du lịch.

Cuối cùng, nhằm gia tăng việc sử dụng túi thân thiện với môi trường, các nhà quản lý du lịch có chính sách khuyến khích du khách sử dụng túi thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, giai đoạn đầu các nhà quản lý sẽ gặp khó khăn vì túi thân thiện với môi trường có thể tăng cao chi phí tiêu dùng của du khách nhưng trong một thời gian dài có thể thay đổi ý định. Một biện pháp giúp cho khách vẫn có thể sử dụng được túi thân thiện với môi trường mà trả mức phí vừa phải là: sử dụng túi giấy làm từ vỏ tôm, cua, bã mía; sử dụng lá chuối bọc thực phẩm tươi sống thay cho túi polymer; sử dụng túi vải, túi giấy để đựng những hàng hóa khô; sử dụng tre làm thành những cái túi đựng thực phẩm đã chế biến hay túi đựng trà sữa, chè, nước mía, nước ngọt, ….

5.3 Hạn chế và định hướng nghiên cứu tương lai

Nghiên cứu này tiếp cận dữ liệu từ du khách quốc tế đến Nha Trang, nghiên cứu tương lai nên mở rộng quy mô mẫu nghiên cứu với địa phương có du lịch biển bao gồm nhiều đối tượng khách khác nhau. Đồng thời, mô hình nghiên cứu nên tích hợp thêm nhiều khái niệm trong lý thuyết điểm mạnh thái độ như: kiến thức về môi trường, sự quan tâm tác hại của túi polymer đối với môi trường, kiến thức về sức khỏe khi tiêu dùng thực phẩm, cũng như xem xét tác động của chúng dưới góc độ (trực tiếp, trung gian, tiết thế) trong mô hình TPB mở rộng.


Tài liệu tham khảo

  1. Ajzen, I. (1991), “The Theory of planned behaviour”, Organizational behaviour and human decision processes, 50(2), 179-211.
  2. Ari & Yilmaz (2015), “Consumer attitudes on the use of plastic and cloth bags”, Environment, Development and Sustainability, (4), 1219–1234.
  3. Lê Chí Công (2017), “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến ý định tiêu dùng xanh: trường hợp khách quốc tế đến Nha Trang”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (241), 96-104.
  4. Huỳnh Thị Ngọc Diệp và Hồ Huy Tựu (2013), “Sự sẳn lòng chi trả thêm đối với sản phẩm cá basa nuôi sinh thái của người tiêu dùng tại thành phố Nha Trang”. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ, (27), 94-103.
  5. Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hòa (2008), Giáo trình Kinh tế du lịch, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
  6. Hair, J., Anderson, R., Tatham, R., & Black, W. (1998), Multivariate Data Analysis (5th edition), Prentice Hall: Upper Saddle River.
  7. Nguyễn Vũ Hùng, Nguyễn Hùng Cường và Hoàng Lương Vinh (2015), “Phong cách sống và tiêu dùng xanh dưới góc nhìn của lý thuyết hành vi có kế hoạch”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (216), 57-65.
  8. Kast, K., & Tanner. M (2003), “Promoting sustainable consumption : Determinants of green purchases by swiss consumer”, Psychology & Marketing, 20(10), 883-902.
  9. Đỗ Phương Linh (2018), “Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh của người dân thành phố Nha Trang - Tỉnh Khánh Hòa”, Luận văn Thạc sĩ, Trường đại học Nha Trang.
  10. Trần Thị Thùy Linh (2018), “Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh trong du lịch – Trường hợp khách du lịch quốc tế đến thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa”, Luận văn Thạc Sĩ, Trường đại học Nha Trang.
  11. Maichum, P., & Ke-Chung, P. (2016), “Application of the extended theory of planned behavior model to investigate purchase intention of green products among Thai consumers”, National pingtung University of Science and Technology, (1).
  12. Madden, T.J., Ellen, P.S., & Ajzen, I. (1992), “A comparison of the theory of planned behaviour and the theory of reasoned action”, Personality and social
    psychology Bulletin, (18), 3-9.
  13. Schultz, P., Shriver, C. (2004), “Implicit connections with nature”, Journal of Environment Psychology, 31-42.
  14. Schultz, Zelezny, L. C. & P. W. (2000), “Promoting environmentalis”, Journal of Social Issues, (56), 365-578.
  15. Verbeke, W., & Viaene J. (1999), “Beliefs, attitude and behavior towards fresh meat consumption in Belgium: empirical evidence from a consumer survey”, Food Quality and Preference, 10, 437-445.

 

[1] Trường Đại học Nha Trang, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.; Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

[2] Trường Đại học Nha Trang, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

 NGHĨA VỤ BẢO MẬT THÔNG TIN GIAI ĐOẠN TIỀN HỢP ĐỒNG trong pháp luẬt viỆt nam[1] 

 

Đinh Thị Tâm[2]

Tóm tắt: Bài viết phân tích các quy định về nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng theo Bộ luật dân sự 2015 và một số quy định chuyên biệt, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật có liên quan của Việt Nam .

Từ khóa: Giai đoạn tiền hợp đồng, nghĩa vụ tiền hợp đồng, bảo mật thông tin tiền hợp đồng

Abstract: This paper analyzes regulations on the duty of confidentiality during the pre-contractual stage under Vietnam’s Civil Code 2015 and specialized laws, therefrom give some recommendations to improve those regulations.

Keywords: Pre-contractual stage, pre-contractual obligation, confidentiality during pre-contractual stage.

  1. Đặt vấn đề

Giai đoạn tiền hợp đồng là giai đoạn đầu tiên liên quan đến hợp đồng. Trong giai đoạn này các bên tiến hành đàm phán với nhau để đi đến sự ưng thuận giao kết hợp đồng. Để đạt được sự ưng thuận thì trong giai đoạn này các bên phải cung cấp cho nhau các thông tin cần thiết liên quan đến nội dung, đối tượng của hợp đồng. Do tính chất quan trọng của các thông tin mà các bên cung cấp cho nhau trong giai đoạn này nên xu hướng trong các hệ thống pháp luật hiện nay đều thừa nhận nghĩa vụ bảo mật thông tin trong giai đoạn tiền hợp đồng là một loại nghĩa vụ pháp lý. Không nằm ngoài xu hướng chung đó, pháp luật của Việt Nam cũng đã có các quy định chung và các quy định chuyên biệt về nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng. Tuy nhiên, các quy định này hiện nay vẫn còn một số tồn tại nhất định dẫn đến vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Trong bài viết này, tác giả trung phân tích các quy định về nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng theo Bộ luật dân sự (BLDS) 2015 và một số quy định chuyên biệt, từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.

  1. Giai đoạn tiền hợp đồng

Thuật ngữ ‘tiền hợp đồng” đã được đề cập trong rất nhiều các công trình khoa học cũng như trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có “một định nghĩa chính thức cụ thể, rõ ràng về giai đoạn tiền hợp đồng trong các văn bản pháp lý quốc tế và pháp luật của các quốc gia” (Lê Trường Sơn, 2015, tr.26).

Trên cơ sở nghiên cứu học lý cũng như thực tiễn có thể xác định giai đoạn tiền hợp đồng là giai đoạn diễn ra trước khi có hợp đồng. Yếu tố đầu tiên khi xem xét quan hệ tiền hợp đồng là lời mời giao kết hợp đồng. Lời mời giao kết hợp đồng không phải là một đề nghị giao kết hợp đồng mà chỉ là một sự bày tỏ ý định tạo lập hợp đồng, là điểm khởi đầu của quá trình đàm phán hợp đồng. Lời mời giao kết hợp đồng có thể được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau như quảng cáo, trưng bày giới thiệu hàng hóa,…

Thông qua giai đoạn tiền hợp đồng các bên xem xét khả giao kết hợp đồng, thương lượng những điều khoản cụ thể của hợp đồng, chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc giao kết hợp đồng nếu có… Nói cách khác, giai đoạn tiền hợp đồng là giai đoạn để các bên bày tỏ ý chí với nhau cũng như chuẩn bị các điều kiện cần thiết khác cho việc giao kết hợp đồng, giai đoạn này có thể dài ngắn khác nhau tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể.

Tóm lại, giai đoạn tiền hợp đồng là giai đoạn mà các bên có mối quan hệ với nhau liên quan đến hợp đồng, giai đoạn này diễn ra trước khi hợp đồng được ký kết, thường được bắt đầu từ khi một bên thể hiện ý muốn xác lập hợp đồng và kết thúc khi hợp đồng được giao kết.

  1. Nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng

Giai đoạn tiền hợp đồng là một giai đoạn khá đặc điệt, có vai trò tiên quyết đối với việc hợp đồng sau đó có được giao kết hay không. Trong giai đoạn này, để đi đến sự ưng thuận các bên phải bày tỏ ý chí với nhau bằng cách đưa ra các ý tưởng, trao đổi các ý kiến, cung cấp cho nhau các thông tin cần thiết có liên quan đến hợp đồng. Thông tin trong giai đoạn này có ý nghĩa quan trọng giúp cho các bên hiểu rõ về nội dung, đối tượng của hợp đồng mà mình sẽ giao kết để đi đến sự ưng thuận giao kết cũng như chịu trách nhiệm về những cam kết của mình sau đó.

Có thể nói, nếu việc cung cấp thông tin trong giai đoạn tiền hợp đồng là rất quan trọng, tạo nên sự thống nhất ý chí giữa các bên thì việc bảo mật thông tin trong giai đoạn này cũng là hết sức cần thiết, điều này xuất phát từ hai lý do cơ bản sau:

Một là, tạo sự cân bằng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng

Xuất phát từ nguyên tắc tự do hợp đồng đòi hỏi các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng phải “có nghĩa vụ tự tìm kiếm thông tin trước khi đưa ra quyết định từ chối hay chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của bên kia” (Đỗ Văn Đại, 2017, tr.457), trong khi đó tình trạng thông tin bất đối xứng xuất hiện khá phổ biến trong nhiều loại hợp đồng và không phải trong trường hợp nào các bên cũng có thể dễ dàng tìm kiếm được các thông tin cần thiết có liên quan đến đối tượng của hợp đồng. Do vậy, trong nhiều trường hợp pháp luật đã quy định các bên phải có nghĩa vụ cung cấp cho nhau các thông tin cần thiết có thể ảnh hưởng tới việc chấp nhận giao kết hợp đồng (chẳng hạn, khoản 1 Điều 387 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp một bên có thông tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì phải thông báo cho bên kia biết”). Nếu một bên không cung cấp các thông tin cần thiết cho bên kia mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thường; trường hợp, hợp đồng đã được xác lập thì bên có quyền được cung cấp thông tin có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại (chẳng hạn, Điều 443 BLDS 2015 quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin và hướng dẫn cách sử dụng trong hợp đồng mua bán tài sản: nếu bên bán vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin cần thiết và hướng dẫn cách sử dụng cho bên mua dẫn đến bên mua không đạt được mục đích giao kết hợp đồng thì bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bổi thường thiệt hại). Như vậy, để đảm bảo cho các bên có được các thông tin cần thiết liên quan đến đối tượng của hợp đồng, giúp các bên “thực sự tự nguyện giao kết” pháp luật đã quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin là một loại nghĩa vụ pháp lý, nếu vi phạm sẽ phải gánh chịu các biện pháp chế tài, do đó, khi một bên đã cung cấp các thông tin của mình cho bên kia thì bên nhận được thông tin phải sử dụng đúng mục đích và có nghĩa vụ bảo mật các thông tin đó, nếu vi phạm thì cũng phải gánh chịu các biện pháp chế tài, có như vậy mới đảm bảo sự cân bằng quyền và nghĩa vụ của các bên.

Hai là, bảo vệ sự an toàn cho các thông tin được cung cấp

Trong quá đàm phán, các bên có thể cung cấp cho nhau những thông tin quan trọng mà mình đang nắm giữ, có được. Những thông tin mà một bên đưa ra có thể là bí mật kinh doanh, công thức, bí quyết để cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, thiết kế sản phẩm, công nghệ phát triển sản phẩm mới... những thông tin này là tài sản quan trọng của doanh nghiệp. Nếu sau đó hợp đồng được giao kết giữa các bên thì vấn đề bảo mật thông tin sẽ được xác định theo hợp đồng. Nếu sau đó vì bất kì lý do gì, hợp đồng không được giao kết thì bên đã cung cấp thông tin có thể đứng trước những rủi ro tiềm ẩn nếu không được bảo vệ thích đáng. Các thông tin mà một bên đã cung cấp có thể bị bên nhận được thông tin hay người thứ ba sử dụng trái với ý muốn của bên cung cấp thông tin, gây bất lợi, thiệt hại cho bên cung cấp thông tin. Vì vậy, cần thiết phải có cơ chế điều chỉnh đảm bảo, khi một bên nhận được các thông tin của bên kia thì phải có nghĩa vụ bảo mật các thông tin đó nhằm ngăn ngừa rủi ro cho bên đã cung cấp thông tin.

Có thể nói, giai đoạn tiền hợp đồng là một giai đoạn rất dễ có sự gian lận và lạm dụng ở mọi góc độ. Đây cũng là giai đoạn tương đối độc lập với các giai đoạn khác liên quan đến hợp đồng. Do vậy, cùng với nghĩa vụ cung cấp thông tin, nghĩa vụ bảo mật thông tin ở giai đoạn này cần được quy định là một loại nghĩa vụ pháp lý độc lập nhằm xác định rõ các quyền và nghĩa vụ cho các bên liên quan.

  1. Một số quy định về nghĩa vụ bảo mật thông tin trong pháp luật Việt Nam

Pháp luật Việt Nam đã từng bước ghi nhận nghĩa vụ bảo mật thông tin trong giai đoạn tiền hợp đồng. Tuy nhiên, qua khảo cứu các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan có thể thấy vấn đề về nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Trong một số ít trường hợp, nghĩa vụ bảo mật thông tin cũng được đặt ra cho các bên nhưng chủ yếu vẫn là đối với thông tin có được trong quá trình thực hiện hợp đồng và trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên, mà không phải là nghĩa vụ đương nhiên trong giai đoạn tiền hợp đồng.

4.1. Quy định về nghĩa vụ bảo mật thông tin trong Bộ luật Dân sự năm 2015

Các BLDS trước đây của Việt Nam không có quy định về nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng. Trong cả hai BLDS 1995, 2005 chỉ tồn tại một số quy định về nghĩa vụ bảo mật thông tin trong quá trình thực hiện hợp đồng của một số loại hợp đồng cụ thể như tại các quy định về nghĩa vụ bảo mật thông tin trong hợp đồng dịch vụ, hợp đồng gia công, hợp đồng ủy quyền… mà chưa có quy định mang tính khái quát chung. Nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng có chăng chỉ được suy luận một cách gián tiếp dựa trên nguyên tắc chung về thiện chí, trung thực. Trên cơ sở nguyên tắc thiện chí, trung thực, buộc các bên phải có ý thức tôn trọng các quyền, lợi ích của đối tác, nghiêm chỉnh thực hiện các nghĩa vụ của mình ngay từ khi bước vào đàm phán cho dù sau đó hợp đồng có được giao kết giữa các bên hay không. Đây cũng là căn cứ pháp lý để xác định trách nhiệm của bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ nói chung và nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng nói riêng.

BLDS 2015 đã có một bước tiến mới trong việc ghi nhận nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng. Bên cạnh việc tiếp tục ghi nhận nguyên tắc thiện chí, trung thực là nguyên tắc chung của pháp luật dân sự, đòi hỏi các bên phải hành xử với nhau một cách thiện chí, trung thực trong suốt quá trình đàm phán, giao kết, thực hiện và cả sau khi chấm dứt quan hệ hợp đồng thì lần đầu tiên BLDS 2015 đã có quy định riêng về nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng, cụ thể:

+ Khoản 2 Điều 387 BLDS 2015: “Trường hợp một bên nhận được thông tin bí mật của bên kia trong quá trình giao kết hợp đồng thì có trách nhiệm bảo mật thông tin và không được sử dụng thông tin đó cho mục đích riêng của mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác”. Theo quy định này, nghĩa vụ bảo mật thông tin trong giai đoạn tiền hợp đồng là một loại nghĩa vụ pháp lý độc lập mà các bên phải tuân thủ.

+ Khoản 3 Điều 387 cũng quy định rõ trách nhiệm của bên vi phạm: “Bên vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Như vậy, khi nhận được thông tin bí mật của bên kia trong quá trình đàm phán, bên nhận thông tin có nghĩa vụ bảo mật các thông tin đó và không được phép sử dụng cho các mục đích khác nằm ngoài việc giao kết hợp đồng, nếu gây ra thiệt hại sẽ phải bồi thường.

Bằng việc quy định cụ thể nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng, cũng như quy định trách nhiệm do vi phạm, BLDS 2015 đã tạo ra hành lang pháp lý góp phần đảm bảo an toàn cho các quan hệ hợp đồng, góp phần cân bằng quyền và nghĩa vụ của các bên trong giai đoạn tiền hợp đồng. Đây cũng là căn cứ pháp lý để các cơ quan áp dụng trong giải quyết các tranh chấp phát sinh từ thực tiễn. Tuy nhiên, quy định này hiện nay vẫn còn những vấn đề cần được làm rõ để đảm bảo tính thống nhất trong áp dụng.

Thứ nhất, quy định hiện nay của BLDS chỉ quy định về nghĩa vụ bảo mật thông tin, mà chưa có quy định cụ thể về giới hạn bảo mật thông tin. Thiết nghĩ, mọi loại nghĩa vụ đều cần có giới hạn, nghĩa vụ bảo mật thông tin cũng nên như vậy. Bởi lẽ, trên thực tế có nhiều trường hợp việc thực hiện nghĩa vụ bảo mật thông tin không gây nhiều khó khăn cho bên có nghĩa vụ nhưng lại gây ra thiệt hại cho lợi ích chung. Với tư cách là đạo luật chung, BLDS nên quy định nghĩa vụ bảo mật thông tin là một nghĩa vụ có giới hạn, làm tiền đề cho các luật chuyên ngành đưa ra các quy định cụ thể tương ứng với đặc thù về đối tượng điều chỉnh của mình.

Thứ hai, khoản 3 Điều 387 chỉ quy định trách nhiệm “bồi thường” mà không quy định rõ đó là trách nhiệm hợp đồng hay ngoài hợp đồng. Điều này, dẫn đến hai luồng quan điểm:

Quan điểm thứ nhất, coi đó là trách nhiệm ngoài hợp đồng, giống như đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin và theo đó sẽ áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để giải quyết.

Quan điểm thứ hai, cho rằng cần phân biệt hai trường hợp:

Trường hợp thứ nhất, nếu giữa các bên có thỏa thuận về bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng (thường ở dạng một thỏa thuận hợp đồng) thì khi đó, vi phạm nghĩa vụ bảo mật thông tin dẫn tới trách nhiệm hợp đồng và theo đó sẽ áp dụng các quy định điều chỉnh thực hiện hợp đồng để giải quyết.

Trường hợp thứ hai, giữa các bên không có thỏa thuận về bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng thì trách nhiệm do vi phạm (pháp luật về bảo mật) sẽ dẫn tới trách nhiệm ngoài hợp đồng và đương nhiên sẽ áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để giải quyết.

Tác giả cho rằng, trong giai đoạn tiền hợp đồng các bên hoàn toàn có thể có những thỏa thuận về bảo mật thông tin ở giai đoạn này, và khi một bên vi phạm nghĩa vụ bảo mật thì đó là trách nhiệm hợp đồng. Tuy nhiên, dưới góc độ xem xét nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng là một loại nghĩa vụ luật định độc lập, tức là, đã loại trừ trường hợp giữa các bên có thỏa thuận về nghĩa vụ bảo mật thông tin thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

4.2. Một số quy định chuyên biệt về nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng

Bên cạnh quy định chung trong BLDS về nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng, loại nghĩa vụ này còn được ghi nhận trong các quy định chuyên biệt.

4.2.1. Hoạt động nhượng quyền thương mại

Hiện nay, hoạt động nhượng quyền thưong mại (NQTM) được điều chỉnh trực tiếp bởi Luật thương mại 2005. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của các đối tượng NQTM nên hoạt động NQTM còn chịu sự điều chỉnh của Luật sở hữu trí tuệ, Luật cạnh tranh.

Luật thương mại 2005 không có quy định cụ thể về nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng. Khoản 4 Điều 289 Luật thương mại 2005 quy định: “Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân nhận quyền có các nghĩa vụ sau đây: Giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng quyền, kể cả sau khi hợp đồng nhượng quyền thương mại kết thúc hoặc chấm dứt”. Như vậy, theo quy định trên, nghĩa vụ bảo mật thông tin chỉ đặt ra trong giai đoạn thực hiện hợp đồng và sau khi hợp đồng chấm dứt, mà không đặt ra trong giai đoạn tiền hợp đồng, điều này cho thấy sự thiếu thống nhất với quy định chung trong BLDS.

Trước khi kí kết hợp đồng NQTM, bên nhượng quyền có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên quan đến hệ thống nhượng quyền thương mại như thông tin về doanh số, danh sách và các thông tin liên quan đến khách hàng cũng như các thông tin liên quan đến bí quyết kinh doanh và công nghệ cho bên nhận quyền. Những thông tin này đặc biệt quan trọng đối với bên nhận quyền trong việc phân tích và kiểm chứng về hệ thống nhượng quyền trước khi quyết định gia nhập hệ thống. Nói cách khác, những thông tin này được cung cấp cho bên nhận quyền nhằm đảm bảo tính minh bạch và lợi ích thương mại của bên nhận quyền trong việc đưa ra quyết định gia nhập hệ thống. Nếu bên nhượng quyền vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin sẽ phải chịu trách nhiệm (cụ thể, theo điểm c khoản 1 và khoản 2 Điều 24 Nghị định 35/2006/NĐ-CP nếu bên nhượng quyền vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin (bao gồm cả trong giai đoạn tiền hợp đồng) thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây ra thiệt hại thì phải bồi thường), do vậy, điều này cũng đặt ra một nghĩa vụ ngầm định theo tinh thần chung về thiện chí, trung thực trong xác lập và thực hiện hợp đồng cho bên nhận quyền đó là phải sử dụng các thông tin mình nhận được đúng mục đích và không được tiết lộ các thông tin đó cho bên thứ ba nếu không được bên nhượng quyền cho phép. Như vậy, nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng trong quan hệ NQTM trước hết là nghĩa vụ ngầm định theo tinh thần chung về thiện chí, trung thực.

Nếu luật thương mại 2005 chỉ ghi nhận nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng là một loại nghĩa vụ ngầm định, thì Luật sở hữu trí tuệ đã ghi nhận nó là một loại nghĩa vụ pháp lý độc lập. Tại điểm c khoản 3 Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009 (Luật sở hữu trí tuệ) quy định: “Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó”. Quyền sở hữu công nghiệp được giải thích tại khoản 4 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Theo đó, một chủ thể chỉ được coi là có “quyền” đối với bí mật kinh doanh khi quyền đó được xác lập một cách hợp pháp và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó. Do đó, có thể suy luận ra rằng, trong giai đoạn tiền hợp đồng vì hợp đồng chưa được giao kết nên bên nhận được các thông tin về bí mật kinh doanh chưa được xác lập “quyền” đối với bí mật kinh doanh nên họ không được phép sử dụng hay tiết lộ các thông tin đó. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh là, không phải thông tin nào được các bên trao đổi với nhau trong giai đoạn tiền hợp đồng cũng được coi là bí mật kinh doanh thuộc đối tượng được bảo vệ. Bí mật kinh doanh được giải thích tại khoản 23 Điều 4 Luât sở hữu trí tuệ chỉ bao gồm: “thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh”. Luật sở hữu trí tuệ cũng quy định rõ về điều kiện chung đối với bí mật kinh doanh được bảo hộ tại Điều 84 và liệt kê các đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh tại Điều 85.

Ngoài ra, điểm b khoản 1 Điều 127 Luật sở hữu trí tuệ còn quy định: “Các hành vi sau đây bị coi là xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh: Bộc lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó”. Như vậy, việc “bộc lộ” thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được chủ sở hữu cho phép là hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, nghĩa vụ này cũng có ngoại lệ, tức là trong một số trường hợp các chủ thể được phép bộc lộ thông tin bí mật kinh doanh (cụ thể xem khoản 3 Điều 125 Luật sở hữu trí tuệ ). Về hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật sở hữu trí tuệ nói chung và hành vi vi phạm nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng nói riêng sẽ được giải quyết theo các quy định của Luật sở hữu trí tuệ. Cụ thể, tại các Điều 202, 211, 212 Luật sở hữu trí tuệ quy định ba biện pháp chế tài là: dân sự, hành chính, hình sự.

Có thể thấy, so với quy định chung trong BLDS, Luật sở hữu trí tuệ với tính chất là một luật chuyên ngành đã quy định chi tiết hơn về nghĩa vụ bảo mật thông tin, theo đó, luật này xác định rõ điều kiện để bí mật kinh doanh được bảo hộ với tư cách là thông tin bí mật, những thông tin không được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh, các biện pháp chế tài khi có hành vi vi phạm... điều này đã tạo thuận lợi cho các bên và cho cả các cơ quan chức trách trong quá trình vận dụng pháp luật. Các quy định của Luật sở hữu trí tuệ nêu trên không giới hạn phạm vi áp dụng là ở giai đoạn nào của quan hệ hợp đồng nên có thể hiểu là được áp dụng chung cho những thông tin có được trong suốt quá trình xác lập, thực hiện và cả sau khi chấm dứt hợp đồng. Nói cách khác, trong giai đoạn tiền hợp đồng nếu bên nhượng quyền đã cung cấp bí mật kinh doanh của mình thì bên nhận nhượng quyền có nghĩa vụ phải bảo mật các thông tin đó.

Bên cạnh Luật sở hữu trí tuệ, hoạt động NQTM còn chịu sự điều chỉnh của Luật cạnh tranh. Kế thừa và phát triển các quy định của Luật cạnh tranh 2004, Luật cạnh tranh 2018, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2019 (Luật cạnh tranh) tiếp tục ghi nhận nghĩa vụ bảo mật thông tin. Cụ thể, điểm b khoản 1 Điều 45 quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm: “Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh dưới các hình thức sau đây: Tiết lộ, sử dụng thông tin bí mật trong kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó”. Ngoài ra, về xử lý các hành vi vi phạm, khoản 1 Điều 110 quy định: “Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật”. Như vậy, Luật cạnh tranh đã có sự thay đổi, bổ sung thêm biện pháp hình sự, bên cạnh biện pháp xử phạt hành chính và bồi thường thiệt hại. Sự thay đổi này là phù hợp nhằm tạo ra sự thống nhất với các Luật khác có liên quan mà trong trường hợp này có thể thấy rõ nhất là sự thống nhất với Luật sở hữu trí tuệ.

Như vậy, trong hoạt động NQTM, bí mật kinh doanh được bảo vệ thông qua nguyên tắc chung về thiện chí, trung thực và còn được bảo vệ thông qua các quy định chuyên biệt trong Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh. Các quy định này có phạm vi điều chỉnh khá hẹp là chỉ áp dụng cho thông tin được coi là bí mật kinh doanh. Hành vi vi phạm nghĩa vụ bảo mật thông tin được coi là căn cứ yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại được áp dụng theo quy định chung trong BLDS. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm dừng hành vi xâm hại và khắc phục các hậu quả do hành vi vi phạm gây ra. Trường hợp bên nhận quyền cố ý tiết lộ các bí mật liên quan đến bí quyết kinh doanh và hoạt động của hệ thống nhượng quyền cho bên thứ ba mà chưa được sự đồng ý thì bên nhượng quyền có thể đồng thời tiến hành các thủ tục tố tụng dân sự hoặc hình sự cần thiết để bảo vệ quyền sở hữu đối với các thông tin và bí quyết kinh doanh, công nghệ, tuỳ theo mức độ và tính chất của hành vi xâm hại và hậu quả thiệt hại do hành vi đó gây ra.

4.2.2. Hoạt động ngân hàng

Trong hoạt động ngân hàng, nội dung các quy định về bảo đảm bí mật thông tin khách hàng được ghi nhận ở nhiều văn bản quy phạm khác nhau như Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng… Chi tiết, có thể kể đến Nghị định 117/2018/NĐ-CP về việc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (gọi chung là Tổ chức tín dụng, viết tắt là TCTD).

Theo khoản 8 Điều 4 Luật Phòng, chống rửa tiền 2012: “Khách hàng là tổ chức, cá nhân đang sử dụng hoặc có ý định sử dụng dịch vụ hoặc sản phẩm do tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan cung cấp”. Khi cung cấp dịch vụ ngân hàng, TCTD có nghĩa vụ bảo mật thông tin khách hàng. Khoản 1 Điều 3 Nghị định 117/2018/NĐ-CP đã quy định cụ thể về phạm vi nội dung thông tin khách hàng được bảo mật: “Thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây gọi là thông tin khách hàng) là thông tin do khách hàng cung cấp, thông tin phát sinh trong quá trình khách hàng đề nghị hoặc được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cung ứng các nghiệp vụ ngân hàng, sản phẩm, dịch vụ trong hoạt động được phép, bao gồm thông tin định danh khách hàng và thông tin sau đây: thông tin về tài khoản, thông tin về tiền gửi, thông tin về tài sản gửi, thông tin về giao dịch, thông tin về tổ chức, cá nhân là bên bảo đảm tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các thông tin có liên quan khác”. Theo quy định này, nghĩa vụ bảo mật thông tin khách hàng của TCTD là một nghĩa vụ pháp lý phát sinh trong hoạt động nghề nghiệp của các TCTD, do vậy, dù có hay không có sự thỏa thuận giữa các bên thì TCTD vẫn phải thực hiện nghĩa vụ này. Phạm vi thông tin mà tổ chức tín dụng có nghĩa vụ bảo mật bao gồm thông tin của chính khách hàng và cả thông tin của đối tác của khách hàng. Đây là điểm khác biệt so với quy định chung của BLDS vì theo BLDS 2015 phạm vi thông tin mà các bên có nghĩa vụ bảo mật chỉ là “thông tin bí mật của bên kia” chứ không bảo gồm thông tin của bên thứ ba. Sự khác biệt này xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động ngân hàng.

Thực tế, do tính đặc thù của hoạt động ngân hàng, nên các thông tin mà khách hàng cung cấp cho TCTD không chỉ là các thông tin của chính khách hàng mà có thể còn bao gồm các thông tin từ các đối tác của khách hàng. Vấn đề đặt ra là nếu TCTD vi phạm nghĩa vụ bảo mật thông tin, làm lộ bí mật thông tin của đối tác của khách hàng thì sẽ giải quyết như thế nào. Theo Nghị định 117/2018/NĐ-CP trong trường hợp TCTD vi phạm nghĩa vụ bảo mật thông tin thì chỉ khách hàng có quyền khiếu nại, khởi kiện, yêu cầu bồi thường thiệt hại mà không quy định quyền này cho bên thứ ba. Cụ thể, theo điểm b khoản 1 Điều 13 Nghị định 117/2018/NĐ-CP, khách hàng có quyền: Khiếu nại, khởi kiện, yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật trong trường hợp cơ quan nhà nước, tổ chức khác, cá nhân, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cung cấp, sử dụng thông tin khách hàng không đúng quy định của pháp luật. Vậy vấn đề đặt ra là, bên thứ ba trong trường hợp này sẽ được bảo vệ ra sao khi họ không phải là khách hàng của TCTD, không có mối quan hệ trực tiếp với TCTD. Theo chúng tôi, cần quy định cụ thể về vấn đề này để đảm bảo tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp cho bên thứ ba.

Về nguyên tắc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng được quy định cụ thể tại Điều 4 Nghị định 117/2018/NĐ-CP, theo đó, thông tin khách hàng phải được giữ bí mật. TCTD chỉ được cung cấp thông tin khách hàng cho cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định pháp luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân chỉ được yêu cầu TCTD cung cấp thông tin khách hàng theo đúng mục đích, nội dung, phạm vi, thẩm quyền theo quy định của pháp luật và phải sử dụng đúng mục đích yêu cầu đó. Theo điểm b khoản 1 Điều 14 Nghị định 117/2018/NĐ-CP, TCTD có quyền từ chối việc yêu cầu cung cấp thông tin khách hàng nếu việc yêu cầu đó không thỏa mãn các điều kiện pháp luật đã quy định. Ngoài ra, để đảm bảo an toàn thông tin cho khách hàng, tránh trường hợp thông tin bị tiết lộ, bị sử dụng trái các quy định pháp luật gây rủi ro cho cả TCTD và khách hàng, Điều 5 Nghị định 117/2018/NĐ-CP còn quy định về: “Quy định nội bộ về giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin khách hàng”, theo đó, TCTD phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để ban hành quy định nội bộ về giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin khách hàng và tổ chức thực hiện thống nhất trong TCTD của mình.

Về thời gian bảo mật thông tin khách hàng, theo điểm b khoản 2  Điều 14 Nghị định 117/2018/NĐ-CP, TCTD có trách nhiệm: “Đảm bảo an toàn, bí mật thông tin khách hàng trong quá trình cung cấp, quản lý, sử dụng, lưu trữ thông tin khách hàng”. Theo quy định này, nghĩa vụ bảo mật thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng không có giới hạn về thời gian.

Về trách nhiệm của TCTD khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ bảo mật thông tin khách hàng được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 14 Nghị định 117/2018/NĐ-CP: “Chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật đối với trường hợp vi phạm quy định của Nghị định này, pháp luật có liên quan”. Có thể thấy quy định này quá chung chung, chưa nêu rõ các biện pháp chế tài cụ thể, do đó, khi xảy ra sai phạm, tổ chức tín dụng hầu như sẽ ít chịu trách nhiệm vì vấn đề khách hàng chứng minh thiệt hại để đòi bồi thường khi bị tiết lộ thông tin là rất khó và sẽ có nhiều tranh cãi. Vì vậy, theo chúng tôi việc quy định cụ thể các biện chế tài đối với TCTD vi phạm nghĩa vụ bảo mật thông tin khách hàng sẽ tạo cơ sở để tổ chức tín dụng chấp hành tốt hơn nghĩa vụ này.

4.2.3. Hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý

Trong hoạt động dịch vụ pháp lý, vấn đề bảo mật thông tin khách hàng được quy định trong Luật luật sư và trong bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam.

Luật luật sư 2006, sửa đổi, bổ sung 2012 (Luật luật sư) quy định giữ bí mật thông tin khách hàng là nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động hành nghề luật sư, nghiêm cấm luật sư tiết lộ thông tin khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề. Cụ thể, điểm c khoản 1 Điều 9 quy định: “Nghiêm cấm luật sư thực hiện các hành vi sau đây: Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác”; Đồng thời với quy định trên, Điều 25 còn quy định về “Bí mật thông tin” như sau: “Luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác”.

Về loại thông tin mà luật sư có nghĩa vụ phải giữa bí mật, theo Điều 25 Luật luật sư, những thông tin mà luật sư có nghĩa vụ bảo mật bao gồm: “thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề”. Như vậy, theo quy định này các thông tin mà luật sư phải bảo mật bao gồm cả những thông tin liên quan đến vụ, việc (vấn đề pháp lý mà sau đó khi hợp đồng dịch vụ được giao kết luật sư sẽ giúp khách hàng giải quyết) và cả những thông tin khác về khách hàng.

BLDS 2105 chỉ quy định chung về nghĩa vụ bảo mật “thông tin bí mật” mà không có giải thích thế nào là thông tin bí mật. Luật chuyên ngành là Luật luật sư lại không có quy định cụ thể giới hạn về phạm vi thông tin cần giữ bí mật. Ngoài ra, trên thực tế việc xác định thông tin nào là thông tin bí mật cũng không phải là vấn đề đơn giản. Đối với mỗi khách hàng, thông tin họ muốn giữ bí mật có thể khác nhau, phụ thuộc vào tâm lý, điều kiện, hoàn cảnh, địa vị xã hội của mỗi khách hàng… Do vậy, nên chăng cần kết hợp hai quan điểm trên trong việc xác định giới hạn của luật sư đối với những thông tin về khách hàng cần được bảo mật. Cụ thể, nếu giữa luật sư và khách hàng có sự thỏa thuận, xác định những thông tin nào cần được bảo mật thì giới hạn bảo mật của luật sư được thực hiện theo thỏa thuận và không ràng buộc nghĩa vụ bảo mật của luật sư đối với những thông tin khác về khách hàng (ngoài sự thỏa thuận). Trường hợp không có thỏa thuận thì luật sư có nghĩa vụ bảo mật tất cả các thông tin. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là luật sư chỉ có nghĩa vụ bảo mật các thông tin mà luật sư biết được về khách hàng trong mối quan hệ nghề nghiệp với khách hàng, khi thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng; luật sư không có nghĩa vụ giữ bí mật những thông tin về khách hàng mà luật sư biết được trước khi có “quan hệ nghề nghiệp” với khách hàng.

Về thời hạn mà luật sư có nghĩa vụ phải bảo mật thông tin khách hàng: Luật luật sư không có quy định cụ thể về giới hạn thời gian bảo mật thông tin nói chung và đối với giai đoạn tiền hợp đồng nói riêng. Tuy nhiên, trong bộ “Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam”, Quy tắc 12 quy định: “Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật”. Theo quy định này, việc giữ bí mật thông tin về khách hàng của luật sư không có sự giới hạn về thời gian. Luật sư có trách nhiệm giữ bí mật thông tin về khách hàng trong thời gian đang thụ lý giải quyết vụ việc và cả sau khi kết thúc vụ việc. Nếu áp dụng tương tự quy tắc này cho giai đoạn tiền hợp đồng thì có thể xác định việc giữ bí mật thông tin khách hàng của luật sư không có sự giới hạn về thời gian.

Khi hoạt động nghề nghiệp, luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin khách hàng với tư cách cá nhân. Ngoài ra, Tổ chức hành nghề cũng có nghĩa vụ bảo mật thông tin khách hàng. Khoản 3 Điều 25 Luật luật sư quy định: “Tổ chức hành nghề luật sư có trách nhiệm bảo đảm các nhân viên trong tổ chức hành nghề không tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng của mình” và trong bộ “Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư Việt Nam, Quy tắc 12 quy định: “luật sư có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên quan và nhân viên của mình cam kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà họ biết được và giải thích rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Như vậy, không chỉ bản thân luật sư trực tiếp tiếp nhận, thụ lý giải quyết vụ việc của khách hàng phải giữ bí mật thông tin về khách hàng mà các luật sư khác trong cùng tổ chức hành nghề luật sư cũng phải giữ bí mật thông tin về khách hàng của tổ chức mình.

Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin khách hàng nhưng nghĩa vụ này cũng có ngoại lệ. Cụ thể, Luật luật sư đã quy định các trường hợp luật sư được (hoặc phải) tiết lộ thông tin khách hàng cho bên thứ ba, đó là:

Thứ nhất, sự tiết lộ thông tin về khách hàng được chính khách hàng đồng ý. Và sự đồng ý phải được thể hiện bằng văn bản;

Thứ hai, luật sư tiết lộ thông tin theo quy định của pháp luật. Tiết lộ thông tin theo quy định của pháp luật là trường hợp pháp luật có quy định nghĩa vụ buộc phải khai báo hoặc cung cấp thông tin phục vụ hoạt động điều tra, xác minh của cơ quan có thẩm quyền. Trong những trường này, luật sư buộc phải tiết lộ thông tin để thực hiện nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật, chẳng hạn, quy định về tố giác tội phạm được quy định trong Điều 19 Bộ luật hình sự 2015.

Như vậy, trong hoạt động nghề nghiệp của mình luật sư có nghĩa vụ bảo mật thông tin khách hàng ở cả ba giai đoạn: giai đoạn tiền hợp đồng, giai đoạn thực hiện hợp đồng và cả sau khi hợp đồng đã chấm dứt. Thông tin mà luật sư có nghĩa vụ bảo mật bao gồm những thông tin liên quan đến vụ, việc mà khách hàng muốn nhờ luật sư giải quyết giúp thông qua hợp đồng dịch vụ pháp lý sẽ được giao kết sau đó và cả những thông tin khác của khách hàng.

  1. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng trong pháp luật Việt Nam

Thông qua việc nghiên cứu các quy định chung và một số quy định chuyên biệt của pháp luật hợp đồng Việt Nam về nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng, chúng tôi thấy rằng những quy định này hiện nay còn chưa nhiều, một số quy định còn chưa thực sự rõ ràng, thống nhất dẫn đến những khó khăn trong thực tiễn áp dụng. Theo chúng tôi, các quy định về nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng cần được hoàn thiện theo hướng sau:

Thứ nhất, cần hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng để đảm bảo sự thống nhất giữa quy định chung trong BLDS và các quy định chuyên biệt.

Để điều chỉnh nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng cần có các quy định đầy đủ, đồng bộ ở cả hai cấp độ là: cấp độ một là các nguyên tắc chung để áp dụng cho các quan hệ hợp đồng; cấp độ hai là các quy định riêng dành cho từng loại quan hệ hợp đồng cụ thể. Hiện nay, ở cấp độ một, BLDS 2015 đã có quy định về nghĩa vụ bảo mật thông tin trong giai đoạn tiền hợp đồng được áp dụng chung cho quan hệ hợp đồng, tuy nhiên, ở cấp độ hai, một số quy định chuyên biệt lại chưa tương thích với quy định chung này (chẳng hạn như các quy định của Luật thương mại như đã trình bày ở phần trên).

 Thậm chí, ngay trong BLDS 2015 cũng có những quy định điều chỉnh một số loại hợp đồng chuyên biệt chỉ điều chỉnh nghĩa vụ bảo mật thông tin trong giai đoạn thực hiện hợp đồng và sau khi chấm dứt hợp đồng mà chưa điều chỉnh giai đoạn tiền hợp đồng, chẳng hạn như các quy định về quy định về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ (Điều 517), nghĩa vụ của bên được ủy quyền (Điều 565)… Do đó, cần có sự sửa đổi, bổ sung các quy định riêng để đảm bảo tính thống nhất với quy định chung.

Thứ hai, cần xác định cụ thể hơn về giới hạn bảo mật thông tin, đặc biệt là trong các hợp đồng chuyên biệt.

Hiện nay, BLDS chỉ quy định chung chung về nghĩa vụ bảo mật “thông tin bí mật” mà không đưa ra giới hạn nào khác cho loại nghĩa vụ này. Điều này cũng có thể coi là phù hợp với tư cách là một đạo luật chung. Tuy nhiên, như đã trình bày, bất cứ nghĩa vụ nào cũng nên có giới hạn và nghĩa vụ này cũng nên được quy định như vậy. Ngoài ra, ứng với mỗi quan hệ khác nhau nên có các quy định cụ thể về các loại thông tin như thế nào thì phải bảo mật, bảo mật trong thời gian bao lâu và các trường hợp ngoại lệ mà bên nhận được thông tin có thể được hoặc phải tiết lộ thông tin bí mật của bên kia. Thực tế cho thấy trong giai đoạn đàm phán các bên thường cung cấp cho nhau rất nhiều các thông tin khác nhau và không phải thông tin nào cũng là thông tin bí mật.

Xác định phạm vi thông tin phải bảo mật tạo ra sự minh bạch cho các bên. Bên cạnh đó cũng cần xác định thời hạn thông tin được bảo mật bởi mỗi loại thông tin có giá trị khác nhau. Chẳng hạn, trong hoạt động NQTN, không phải tất cả các thông tin cấu thành bí quyết kinh doanh đều có tầm quan trọng như nhau. Bởi lẽ, các thông tin khoa học kỹ thuật có thể có ích trong một thời gian dài nhưng các thông tin thuần túy thương mại có thể nhanh chóng trở nên lỗi thời, vì vậy, chúng không nên cùng được bảo vệ như nhau. Hơn nữa, việc không giới hạn nghĩa vụ bảo mật thông tin có thể không gây nhiều bất lợi cho người có nghĩa vụ nhưng có thể có hậu quả bưng bít thông tin, và như vậy có thể dẫn đến việc cản trở tự do cạnh tranh. Vì vậy, cần có sự giới hạn về thời hạn bảo mật thông tin tương ứng với mỗi loại thông tin khác nhau.

Thứ ba, cần quy định cụ thể về trách nhiệm pháp lý khi vi phạm nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng.

Theo các quy định hiện hành, các biện pháp trách nhiệm pháp lý có thể được áp dụng cho hành vi vi phạm nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng bao gồm: trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật và nếu có đủ yếu tố cấu thành trách nhiệm hình sự thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong quan hệ hợp đồng lợi ích của các bên được bảo vệ một cách trực tiếp nhất dựa trên trách nhiệm dân sự (trách nhiệm bồi thường thiệt hại). Như đã phân tích, khi xem xét trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ bảo mật thông tin với tư cách là một loại nghĩa vụ luật định thì đây là một loại trách nhiệm ngoài hợp đồng, do đó, sẽ chịu sự điều chỉnh của các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, quy định hiện nay về bồi thường thiệt hại chưa thực sự minh thị. Cụ thể:

Về cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại: khoản 3 Điều 387 BLDS 2015 quy định, trong quá trình giao kết hợp đồng nếu bên nhận được thông tin bí mật của bên kia mà vi phạm nghĩa vụ bảo mật thông tin gây ra thiệt hại thì phải bồi thường. Quy định này chỉ điều chỉnh được một trường hợp cụ thể làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Vậy, đối với trường hợp vi phạm nguyên tắc thiện chí, trung thực thì có làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại không, trách nhiệm đó phát sinh trên cơ sở nào? Do vậy, các nhà làm luật cần quy định rõ hơn về vấn đề này.

Về thiệt hại được bồi thường: mục đích của bồi thường thiệt hại là khôi phục lại tình trạng ban đầu cho người bị thiệt hại, tức là, đưa bên bị thiệt hại quay trở lại hoàn cảnh chưa có thiệt hại. Chính vì thế, các hệ thống pháp luật đều quy định theo hướng bên gây ra thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Một nghiên cứu ở châu Âu khẳng định “nguyên tắc chung điều chỉnh việc bồi thường, cho dù bản chất là gì, là bồi thường toàn bộ và chúng ta thấy một kiểu cách tương tự nhau trong toàn bộ các hệ thống pháp luật châu Âu: Cần đưa nạn nhân vào hoàn cảnh mà họ đáng có nếu ứng xử có lỗi không xảy ra” (Lê Trường Sơn (trích dẫn trong Rémy Cabrillac (2012), tr.56 và 57)). Pháp luật Việt Nam cũng quy định nguyên tắc bồi thường toàn bộ, cụ thể, khoản 1 Điều 585 BLDS 2015 quy định: “Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Như vậy, thiệt hại được bồi thường là toàn bộ “thiệt hại thực tế”. Vậy nếu hành vi vi phạm nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng dẫn đến bên cung cấp thông tin mất đi các lợi ích đáng ra có thể có được nếu như thông tin bí mật đó không bị tiết lộ thì sao? Trong trường hợp không thực hiện hợp đồng đã được giao kết hợp pháp, chúng ta có quy định cho phép bồi thường khoản lợi đáng ra được hưởng nếu hợp đồng được thực hiện bình thường. Cụ thể, theo khoản 2 Điều 302 Luật thương mại, “giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Tuy nhiên, đối với giai đoạn tiền hợp đồng, hiện nay chúng ta lại không có quy định tương tự. Theo chúng tôi, trong giai đoạn tiền hợp đồng cũng nên có quy định tương tự, tất nhiên, để được bồi thường thì bên có quyền cần chứng minh được thiệt hại đó.

Ngoài ra, nếu bên nhận được thông tin bí mật sử dụng các thông tin đó một cách bất hợp pháp hay tiết lộ cho bên thứ ba thì có thể thu được những khoản lợi. Câu hỏi đặt ra là khoản lợi này cần được xử lý như thế nào? Xu hướng chung hiện nay là quy định nghĩa vụ hoàn trả của bên có hành vi vi phạm. Cụ thể như, Điều 2: 302 Bộ nguyên tắc luật hợp đồng Châu Âu quy định về nghĩa vụ bảo mật với nội dung: “Nếu thông tin bí mật được một bên đưa ra trong quá trình thương lượng, bên kia phải có nghĩa vụ không tiết lộ thông tin đó hoặc không sử dụng thông tin đó cho các mục đích riêng bất kể liệu hợp đồng sau đó có được ký kết không. Việc vi phạm nghĩa vụ này có thể làm phát sinh quyền được bồi thường thiệt hại cho những thiệt hại đã xảy ra và hoàn trả những lợi ích đã có được của bên vi phạm”. Hay Điều 2.1.16 Bộ nguyên tắc Unidroit về Hợp đồng thương mại quốc tế 2004 về nghĩa vụ bảo mật: “Thực hiện không đúng nghĩa vụ này có thể phải bồi thường thiệt hai, nếu có, bao gồm lợi ích mà bên kia có thể thu được từ bí mật này”. Tiếp thu xu hướng này, trong phần quy định chung về nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng, chúng ta nên bổ sung thêm quy định: “Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm trả lại những khoản lợi ích thu được từ việc vi phạm đó”.

  1. Kết luận

Tóm lại, trong bối cảnh các giao dịch dân sự ngày càng phát triển và xu thế hội nhập như hiện nay, để pháp luật của Việt Nam không quá cách biệt so với thế giới, đồng thời cũng là để đáp ứng nhu cầu bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên trong giao dịch dân sự, pháp luật Việt Nam cần tiếp thu kinh nghiệm của các hệ thống pháp luật và các văn bản pháp lý quốc tế trong việc ghi nhận nghĩa vụ bảo mật thông tin trong giai đoạn tiền hợp đồng, theo đó cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các quy định về vấn đề này./.

 

Tài liệu tham khảo

  1. Đỗ Văn Đại (2017), Luật Hợp đồng Việt Nam: Bản án và Bình luận bản án, Nxb Hồng Đức, Tập 1.
  2. Hoàng Thị Thanh Thủy (2011), “Điều khoản bảo mật thông tin và điều khoản cấm cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại”, Tạp chí Luật học, số 2/2011.
  3. Lê Trường Sơn (2015), Giai đoạn tiền hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
  4. Nguyễn Thị Kim Thoa (2015), “Đảm bảo bí mật thông tin khách hàng của tổ chức hoạt động ngân hàng - Nhìn từ góc độ pháp lý”, Tạp chí Ngân hàng, số 22/2015.
  5. Kiều Anh Vũ (không năm xuất bản), Giữ bí mật thông tin về khách hàng - Giới hạn và trách nhiệm của Luật sư, truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2019 từ http://kieuanhvu.no1.vn

 

 

 

[1] Bài viết thuộc Đề tài NCKH cấp Trường “Nghĩa vụ cung cấp và bảo mật thông tin trong giai đoạn tiền hợp đồng”, mã số NTCS2018-04.

[2] Trường Đại học Ngoại thương, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

 

TÁC ĐỘNG CỦA NĂNG LỰC LOGISTICS  ĐẾN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

THE EFFECTS OF LOGISTICS PERFORMANCE ON E-COMMERCE

Đoàn Ngọc Thắng[1]

Vũ Thị Thanh Huyền[2]

 

 

 

Tóm tắt

Bài viết này nghiên cứu tác động của năng lực logistics tới thương mại điện tử. Tác giả sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính dựa trên dữ liệu mảng của 23 nước trong ba năm 2014, 2016 và 2018. Năng lực quốc gia về logistics được đo lường qua chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI), được tính toán bởi Ngân hàng Thế giới bao gồm 06 cấu phần: Customs (Hải quan), Infrastructure (Cơ sở hạ tầng), International shipments (Giao hàng quốc tế), Logistics quality and competence (Năng lực và chất lượng của dịch vụ Logistics), Tracking (khả năng track & trace các lô hàng), và Timeliness (Sự đúng lịch). Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy LPI và các cấu phần của nó có tác động tích cực tới thương mại điện tử. Kết quả này hàm ý rằng để phát triển thương mại điện tử, điều cần thiết là phải tăng năng lực quốc gia về logistics.

Abstract

This paper investigates the effects of logistics performance on the e-commerce. We employ an ordinary least square method for a panel data of 23 countries for three years, 2014, 2016, and 2018. Country’s logistics performance is measured by logistics performance index (LPI) which is computed by World Bank consisting of six components: Customs, Infrastructure, International shipments, Logistics quality and competence, Tracking, and Timeliness. The empirical study shows that LPI and its components have positive impacts on e-commerce. This finding suggests that in order to promote e-commerce, it is pivotal to improve LPI.

Từ khoá: Thương mại điện tử, Logistics, Chỉ số năng lực quốc gia về Logistics, Phương pháp Hồi quy

Key words: E-commerce, Logistics, Logistics Performance Index, OLS Method

JEL codes: F15, O52

 


 

  1. Đặt vấn đề

Ngày nay, với sự xuất hiện của điện thoại thông minh, các thiết bị hiện đại trong nghành công nghệ 4.0 đã khiến cho cuộc sống và thói quen của con người dần thay đổi. Cùng với sự phát triển không ngừng của Internet, các thiết bị di động, ... thương mại cũng đang chuyển mình theo hướng mới, áp dụng được những thành tựu khoa học của công nghệ 4.0. Thương mại truyền thống đang dần được thay thế bằng Thương mại điện tử và đây là xu hướng được dự đoán sẽ phát triển mạnh mẽ trong tương lai.

            Khác với thương mại truyền thống, người mua và người bán sẽ trực tiếp gặp nhau thì thương mại điện tử người mua và người bán sẽ chỉ giao dịch thông qua các thiết bị viễn thông được kết nối Internet, không được gặp nhau trực tiếp. Thương mại điện tử trở nên tiện lợi hơn, và ngày càng được người tiêu dùng ưa chuộng, nhờ đó tốc độ tăng trưởng về Thương mại điện tử đang tăng một cách chóng mặt. Vì trong Thương mại điện tử, người mua và người bán không trực tiếp gặp nhau mà giao dịch trực tuyến thông qua Internet nên đã phát sinh thêm một khâu nữa đó chính là khâu vận chuyển hàng hóa từ người bán sang người mua. Điều đó đã tạo nên một sự gắn kết chặt chẽ giữa việc phát triển hoạt động logistics để đáp ứng được sự phát triển của hoạt động thương mại điện tử.

Trước sự phát triển không ngừng của thương mại điện tử và nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng thì sự phát triển của Logistics ở Việt Nam vẫn còn chưa theo kịp để đáp ứng được nhu cầu đó. Theo báo cáo Logistics 2018 của Bộ Công thương thì tốc độ tăng trưởng của Thương mại điện tử là 24% trong khi đó tốc độ tăng trưởng của Logistics chỉ đạt 12% - 14%, thấp hơn hẳn so với mức tăng trưởng của Thương mại điện tử. Điều đó nói lên rằng cần có những biện pháp cấp thiết để nâng cao hiệu suất Logistics để thúc đẩy được sự phát triển của Thương mại điện tử - một ngành đang là xu thế của thế giới. Phát triển dịch vụ Logistics được hiểu là phát triển theo chiều rộng hoặc phát triển theo chiều sâu. Phát triển theo chiều rộng nghĩa là làm tăng về quy mô, doanh số Logistics. Phát triển theo chiều sâu nghĩa là làm tăng năng lực hoạt động của Logistics. Trong bài viết này, nhóm tác giả nghiên cứu tác động của chỉ số năng lực quốc gia về logistics đối với thương mại điện tử.

  1. Tổng quan nghiên cứu

Để đánh giá tác động của hoạt động logistics đối với thương mại điện tử, tác giả dựa vào ba nhánh nghiên cứu như sau:

Thứ nhất, bài viết dựa vào các nghiên cứu về tác động của hoạt động logistics tới hoạt động thương mại của doanh nghiệp và hoạt động thương mại quốc tế giữa các quốc gia:

+ Trên góc độ hoạt động thương mại của doanh nghiệp có bài nghiên cứu của nhóm tác giả Schramm-Klein & Morschett (2006). Trong bài nghiên cứu, nhóm tác giả nghiên cứu về tầm quan trọng của năng lực logistics tới hiệu quả kinh doanh của các công ty bán lẻ. Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát và định lượng. Nhóm tác giả đã tiến hành một cuộc khảo sát 2500 công ty bán lẻ được chọn ngẫu nhiên ở các quốc gia nói tiếng Đức, trên cơ sở đó sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để lượng hóa. Bài nghiên cứu đã chỉ ra năng lực logistics sẽ đem lại những lợi ích dài hạn cho hiệu suất marketing (sự hài lòng và lòng trung thành của khách hàng) dẫn tới tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bán lẻ. Hơn thế việc nâng cao năng suất logistics có thể dễ dàng cải thiện và thể đạt được hiệu quả trong ngắn hạn và trong thực tế nó là một trong những chiến lược kinh doanh quan trọng của các nhà bán lẻ. Bài nghiên cứu cũng chỉ ra việc phối hợp logistics trong chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp (trong nội bộ công ty sản xuất và giữa công ty sản xuất với nhà phân phối) có vai trò đặc biệt quan trọng trong ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp bán lẻ.

+ Trên góc độ thương mại quốc tế có bài nghiên cứu của Hausman và cộng sự (2013).  Bài viết này nghiên cứu tác động của năng lực logistics đối với thương mại song phương trên phạm vi toàn cầu. Nhóm tác giả đã sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp từ nguồn dữ liệu định lượng về thời gian, chi phí và tính biến đổi theo thời gian của năng lực logistics từ World Bank, sau đó sử dụng phương pháp định lượng để đưa ra các những góp ý cải tiến cụ thể giúp tăng năng lực logistics (thời gian, chi phí và độ tin cậy) trong việc gia tăng thương mại song phương.

Thứ hai, đề tài dựa vào các nghiên cứu về các nhân tố tác động đến hoạt động thương mại điện tử: Bài nghiên cứu của Ho & cộng sự (2007). Trong bài nghiên cứu tác giả đề cập tới 3 lý thuyết để mô tả cơ chế cơ bản cho tăng trưởng doanh thu thương mại điện tử ở cấp quốc gia đó là lý thuyết tăng trưởng nội sinh, lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh, lý thuyết tăng trưởng hỗn hợp. Số liệu được đưa ra lấy từ 17 quốc gia Châu Âu trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2004 và được phân tích bằng phương pháp định lượng. Bài nghiên cứu đã chỉ ra những biến trên là nhân tố quan trọng tác động đến sự phát triển của thương mại điện tử tại các quốc gia. Ngoài ra với lý thuyết ngoại sinh (nghĩa là sự tác động của các yếu tố bên ngoài đến quốc gia) cũng ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của thương mại điện tử, hay nói cụ thể hơn thì sự phát triển của thương mại điện tử chịu sự tác động bởi các nước khu vực xung quanh quốc gia đó.

Thứ ba, tác giả dựa trên các nghiên cứu về năng lực về logistics và đo lường năng lực về logistics (Logistic Performance). Năng lực logistics là một khái niệm rất khó định nghĩa và nó có thể được xem là một khái niệm con trong một khái niệm rộng hơn của năng lực doanh nghiệp. Năng lực là gì? Gleason và Barnum (1986) đưa ra định nghĩa năng lực dựa trên thực dụng (effectiveness) và hiệu quả (efficiency). Trong đó, thực dụng là việc đạt được mục tiêu còn hiệu quả là mức độ phân phối nguồn lực tối ưu về mặt kinh tế. Theo một cách khác, Sink và cộng sự (1984) đưa ra định nghĩa năng lực bao gồm sáu tiêu chí sau: thực dụng, hiệu quả, chất lượng, năng suất, chất lượng của cuộc sống công việc, đổi mới và lợi nhuận. Vì chưa có một định nghĩa rõ ràng và được chấp nhận rộng rãi về năng lực, do đó sẽ không ngạc nhiên khi khái niệm năng lực về logicstics được định nghĩa theo các cách khác nhau. Một trong những ví dụ điển hình là khái niệm được đưa ra bởi Rhea và Shrock (1987) theo đó độ thực dụng trong phân phối được định nghĩa là sự phân phối thoã mãn khách hàng. Tuy nhiên, họ cũng cho rằng cần phải gắn đa mục tiêu khi định nghĩa năng lực. Dựa trên quan điểm này, Chow và cộng sự (1994) đã định nghĩa năng lực logistics là mức độ mà các mục tiêu sau đây đạt được: hiệu quả chi phí, lợi nhuận, trách nhiệm xã hội, giao hàng đúng hạn, sẵn có của sản phẩm, linh hoạt, hư hỏng và thất lạc thấp, giữ lời hứa, mức giá hợp lý cho nguyên vật liệu, sự hài lòng của khách hàng, tăng trưởng doanh thu, và an toàn lao động.

Từ phân tích ở trên, ta có thể thấy khái niệm năng lực về logistics là một khái niệm đa chiều. Do đó, sẽ không có một phương pháp đo lường nào là đầy đủ nhất. Thay vào đó, mục tiêu của các học giả và các nhà quản lý là tìm một phương pháp đo lường có thể phản ánh hầu hết các góc độ của năng lực được cho là quan trọng trong ngắn hạn và dài hạn.

Caplice & Sheffi (1994) đã sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích đánh giá để đưa ra kết luận của mình. Tuy nhiên, bài nghiên cứu không chỉ ra những phương pháp hay các nhân tố đánh giá năng lực logistics mới mà thay vào đó tác giả đưa ra các tiêu chí để đánh giá các số liệu năng lực logistics sẵn có một cách độc lập. Caplice & Sheffi (1995) đã chỉ ra rằng Logistics bao gồm một tập hợp các hoạt động phức tạp, do đó để đo lường được năng lực Logistics đòi hỏi phải thu thập số liệu một cách đầy đủ và có hệ thống để cung cấp cho nhà quản lí một cách tổng quát nhất về hệ thống Logistics của doanh nghiệp mình. Tuy nhiên trong thực tế, các hệ thống đo lường năng lực logistics không được đo lường thường xuyên, mối tương quan giữa các chỉ số Logistics không được đánh giá, sự trùng lặp và thiếu sót không được phát hiện dẫn tới không có được cái nhìn tổng quát về bức tranh Logistics của doanh nghiệp. Tác giả đã giải quyết được những nhược điểm trên bằng cách phát triển một bộ tiêu chí đánh giá cho các hệ thống đo lường năng lực logistics và áp dụng chúng vào mô hình của hai công ty là Goodyear Tire & Rubber Co., Inc. và Digita Equipment Corporation. Gunasekaran & Tirtiroglu (2001) đã sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp và đưa ra đánh giá, kết luận. Bài nghiên cứu đã đánh giá năng lực của các nhân tố trong một chuỗi cung ứng (SCM), tập trung vào đánh giá các yếu tố như các phương pháp đàm phán với nhà cung cấp, hiệu suất giao hàng, dịch vụ khách hàng, hàng tồn kho và chi phí hậu cần trong một chuỗi cung ứng. Ngoài ra, trong bài nghiên cứu tác giả còn chỉ ra tác động của những nhân tố đó tới sự hài lòng của khách hàng để giúp các doanh nghiệp có thể vừa cải thiện hiệu quả chuỗi cung ứng của mình, vừa đem tới các sản phẩm có giá trị cao hơn và hài lòng hơn cho người mua. Chow & cộng sự (1994) đã sử dụng phương pháp nghiên cứu thu thập dữ liệu, tổng hợp và phân tích đánh giá. Bài nghiên cứu đề cập tới định nghĩa và việc đo lường năng lực trong nghiên cứu logistics. Bằng việc phân tích các bài nghiên cứu trước đó, tác giả đã chỉ ra những khó khăn trong việc rút ra kết luận về mối quan hệ giữa một chiến lược logistics và năng lực logistics đồng thời tác giả cũng đưa ra các gợi ý để cải thiện chất lượng các nghiên cứu trong tương lai.

Ngân hàng thế giới (WB) đã công bố LPI lần đầu tiên vào năm 2007 và liên tục cập nhật theo chu kỳ 2 năm một lần cho khoảng 150 quốc gia. Chỉ số này đóng một vai trò quan trọng về mặt thống kê vì nó tạo lập dựa trên một thang đo hài hoà cho tất cả các nước nhằm xác định các khó khăn gặp phải của thương mại song phương và những đòi hỏi về mặt logistics. Chỉ số này kết hợp các yếu tố then chốt từ góc độ quốc tế và nó được tính toán dựa trên các kỹ thuật kinh tế lượng nhằm tối đa hoá mức độ ý nghĩa và cải thiện khoảng tin cậy. LPI được tính toán dựa trên khảo sát điều tra có phạm vi toàn cầu đối với các doanh nghiệp vận tải hàng hoá và xúc tiến thương mại.  Chỉ số LPI được đánh giá thông qua 6 tiêu chí:

+ Cơ sở hạ tầng (infrastructure): Những cơ sở hạ tầng liên quan đến chất lượng thương mại và vận tải (cảng, đường sắt, đường bộ, công nghệ thông tin)

+ Giao hàng quốc tế (International shipment): Mức độ dễ dàng khi thu xếp cho các chuyến hàng với giá cả cạnh tranh

+ Chất lượng và năng lực cạnh tranh logistics (Logistics quality and competence):  Chất lượng và năng lực cạnh tranh của các dịch vụ logistics (vd: các nhà điều hành vận tải, môi giới hải quan)

+ Tracking & tracing: khả năng theo dõi và kiểm soát các lô hàng

+ Sự đúng lịch (Timeliness): sự đúng lịch của các lô hàng khi tới điểm đích

+ Hải quan (customs): hiệu quả của quá trình thông quan, chẳng hạn như tốc độ, tính đơn giản, và tính có thể dự liệu trước của các thủ tục.

Đã có các nghiên cứu quốc tế về mối quan hệ giữa LPI và thương mại quốc tế, theo đó LPI được dùng để phản ánh xúc tiến thương mại (trade facilitation). Sourdin & Korinek (2011) chỉ ra tác động thuận chiều của LPI lên thương mại nói chung và của yếu tố hạ tầng nói riêng. Marti và cộng sự (2014) kết luận rằng tác động của LPI càng lớn đối với những hàng hoá càng phức tạp.

Tóm lại, trong các nghiên cứu trên, các bài nghiên cứu đã phân tích, đánh giá khá chi tiết về từng những nhân tố ảnh hưởng tới thương mại điện từ trên cả phạm vi quốc gia và thương mại quốc tế nói chung cũng như đã đánh giá và đo lường các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực logistics. Tuy nhiên, chưa có bất kì nghiên cứu nào chỉ ra mối quan hệ giữa thương mại điện tử và LPI Để giải quyết khoảng trống nghiên cứu này, nhóm tác giả lựa chọn nghiên cứu tác động của LPI đối với hoạt động thương mại điện tử.

Mối quan hệ giữa LPI và thương mại điện tử có thể được giải thích thông qua lý thuyết tăng trưởng nội sinh trong thương mại điện tử (Ho và cộng sự, 2007). Trong phần định lượng, Ho và cộng sự đã đưa ra 5 yếu tố bao gồm số lượng người dùng internet, cường độ đầu tư trong ngành viễn thông, sự sẵn có của đầu tư mạo hiểm, thói quen sử dụng thẻ tín dụng và trình độ học vấn. LPI là chỉ số phản ánh năng lực của quốc gia trong ngành logistics và đây là một nhân tố nội sinh quan trọng cho việc phát triển thương mại điện tử. Ramanathan (2010) và Yu và cộng sự (2016) đã chỉ ra mối quan hệ thuận chiều giữa năng lực logistics và độ trung thành của khách hàng trong thương mại điện tử; độ trung thành là yếu tố ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp (Hallowell, 1996). Ngoài ra, Yong-Kun Cho và cộng sự (2008) đã chỉ ra tác động tích cực của năng lực logistics đối với năng suất của doanh nghiệp thương mại điện tử. Rõ ràng, năng lực logistics là yếu tố cấu thành nên LPI.

  1. Phương pháp nghiên cứu, mô hình và số liệu

Trong bài viết này, tác giả ước lượng mô hình hồi quy tuyến tính cho dữ liệu mảng. Kế thừa nghiên cứu của Ho & cộng sự (2007), trong bài viết này tác giả sẽ chỉ định mô hình nghiên cứu như sau:

 (1)

Trong đó:

- LnEcomit: doanh số thương mại điện tử của nước i ở năm t.

- LIPit: chỉ số năng lực quốc gia về logistics của nước i ở năm t.

- LnGDPit: logarit tự nhiên của GDP nước i năm t.

- LnPOPit: logarit tự nhiên của dân số nước i năm t.

- Debitit: Tỷ lệ phần trăm dân số sở hữu thẻ ghi nợ.

- : Biến giả, nhận giá trị 1 nếu quốc gia i là quốc gia phát triển, nhận giá trị 0 nếu quốc gia đó là không phải là quốc gia phát triển.

            Để đạt được mục đích của bài nghiên cứu, tác giả đã lấy số liệu nghiên cứu từ các nguồn sau đây và chọn lọc những dữ liệu cần thiết để phù hợp với mục đích nghiên cứu. Bài nghiên cứu sử dụng số liệu của báo cáo chỉ số LPI (Logistics Performance Index) – chỉ số năng lực quốc gia về logistics của Ngân hàng Thế Giới, được thống kê 2 năm 1 lần, bài nghiên cứu sử dụng các số liệu thống kê LPI của 23 nước qua các năm 2014, 2016, 2018.

Ngoài ra các dữ liệu về GDP, dân số của 23 nước (Đức, Hà Lan, Vương Quốc Anh, Thụy Điển, Na Uy, Pháp, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Ý, Phần Lan, Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam, Indonesia, Ấn Độ, Liên bang Nga, Brazil, Mexico, Argentina) trong bài nghiên cứu cũng được lấy từ nguồn dữ liệu của Ngân hàng Thế Giới. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu còn lấy các số liệu về tỷ lệ phần trăm dân số sử dụng internet và sở hữu thẻ tín dụng, doanh số thương mại điện tử của 22 nước (không có Việt Nam) ở bản báo cáo của eMarket thống kê và tổng hợp các năm 2014, 2016, 2018. Cuối cùng, nguồn dữ liệu về doanh số thương mại điện tử của Việt Nam qua các năm 2014, 2016, 2018 được lấy từ nguồn dữ liệu thống kê của Sách trắng về Thương mại Điện tử Việt Nam.

Mô tả tóm tắt số liệu thống kê của các biến dưới dạng tổng quát được trình bày ở Bảng 1.

Bảng 1. Mô tả thống kê

Variable

Obs

Mean

Std.Dev.

Min

Max

LnEcom

69

3,17

1,37

0,66

7,36

LnLPI

69

1,28

0,12

0,99

1,44

LnGDP

69

10,01

1,09

7,36

11,48

LnPOP

69

4,16

1,50

1,64

7,23

Debit

69

72,53

26,01

22,07

98,81

Develop

69

0,70

0,46

0,00

1,00

Customs

69

3,41

0,56

2,01

4,21

Infrastructure

69

3,65

0,56

2,43

4,44

Shipments

69

3,42

0,34

2,45

4,00

Logistics

69

3,63

0,45

2,74

4,31

Tracking

69

3,68

0,44

2,62

4,38

Timeliness

69

3,94

0,36

3,14

4,45

Nguồn: Số liệu tự tính toán của tác giả

Trong mô hình này, tác giả sử dụng 69 quan sát bao gồm các dữ liệu của 23 quốc gia trong 3 năm 2014, 2016, 2018. Nhìn vào bảng 1, ta có thể thấy các nước được lấy làm mẫu quan sát có chỉ số LPI khá tương tự nhau với độ lệch chuẩn của LnLPI chỉ là 0,12 với giá trị trung bình là 1,28, nghĩa là các nước được lấy để quan sát có chỉ số LPI là tương đối đồng đều nhau. Nhìn vào bảng ta cũng thấy doanh thu về thương mại điện tử, dân số, phần trăm sử dụng thẻ ghi nợ, trình độ phát triển là những biến có độ lệch chuẩn cao nghĩa là giữa các nước được quan sát thì có sự khác biệt nhau khá lớn về quy mô dân số, doanh thu thương mại điện tử, phần trăm sử dụng thẻ ghi nợ và trong các nước được quan sát, số nước có trình độ đang phát triển lớn hơn so với nước phát triển. Ngoài ra, bảng 1 còn thể hiện đặc điểm của các biến Customs (Hải quan), Infrastructure (Cơ sở hạ tầng), Shipments (Giao hàng), Logistics (Năng lực và chất lượng của dịch vụ Logistics), Tracking (khả năng track & trace các lô hàng), Timeliness (Sự đúng lịch). Đây là các biến hình thành lên LPI, nhìn vào mô tả của các biến trên ta có thể thấy được chi tiết tương quan giữa các biến đó ở các nước được quan sát. Ví dụ nhìn vào bảng ta có thể thấy ngay được các biến hải quan và cơ sở hạ tầng là hai biến có độ lệch chuẩn lớn nhất là 0,6, nghĩa giữa các nước được quan sát thì chênh lệch về các vấn đề liên quan đến hải quan và cơ sở hạ tầng là lớn nhất trong khi đó độ lệch chuẩn về Timliness (Sự đúng lịch) là thấp nhất nghĩa là chỉ số về sự đúng hẹn trong giao hàng ở các nước được quan sát có chênh lệch thấp nhất.

Bảng 2 dưới đây là mô tả mối quan hệ tương quan giữa các biến được sử dụng trong mô hình.

Bảng 2. Hệ số tương quan giữa các biến

 

LnEcom

LnLPI

Customs

Infrastructure

Shipments

Logistics

Tracking

Timeliness

LnEcom

1

             

LnLPI

0,3249

1

           

Customs

0,2693

0,9665

1

         

Infrastructure

0,4056

0,9613

0,9566

1

       

Shipments

0,3141

0,9252

0,8895

0,8964

1

     

Logistics

0,3303

0,9722

0,966

0,9688

0,899

1

   

Tracking

0,3781

0,9167

0,8863

0,928

0,8602

0,9186

1

 

Timeliness

0,3005

0,9594

0,9378

0,9513

0,8992

0,9546

0,9007

1

Nguồn: Số liệu tự tính toán của tác giả

Trong bảng trên ta thấy được mối tương quan trực tiếp giữa mỗi biến độc lập với biến phụ thuộc. Nhìn vào kết quả trên, ta thấy được LPI có tương quan dương tới Ecommerce. Ngoài ra, sáu nhân tố cấu thành LPI là Customs, Infastructure, Shipments, Logistics, Tracking, Timeliness đều có tương quan dương tới Ecommerce. Trong đó Infastructure có tương quan lớn nhất trong khi đó nhân tố có tương quan ít nhất là Customs (Hải quan) với hệ số tương quan là 0,2693. Tuy nhiên, trên thực tế biến phụ thuộc bị chịu tác động của nhiều biến độc lập, chính vì vậy kết quả từ bảng 2 chỉ phản ánh mối tương quan giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập một cách riêng lẻ. Chính vì vậy, để có cái nhìn chính xác hơn về mối quan hệ nhân quả, tác giả sử dụng mô hình hồi quy như đã nêu ở trên và có được kết quả hồi quy ở bảng phân tích kết quả phía dưới.


 

  1. Phân tích kết quả nghiên cứu

Bảng 3. Kết quả hồi quy

 

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

(7)

VARIABLES

LnEcom

LnEcom

LnEcom

LnEcom

LnEcom

LnEcom

LnEcom

LnLPI

2,544**

           
 

(1,076)

           

LnGDP

1,021***

1,039***

0,949***

1,078***

1,032***

1,046***

1,080***

 

(0,183)

(0,198)

(0,190)

(0,183)

(0,198)

(0,201)

(0,202)

LnPOP

1,033***

1,047***

0,999***

1,036***

1,029***

1,021***

1,040***

 

(0,0806)

(0,0867)

(0,0788)

(0,0818)

(0,0858)

(0,0903)

(0,0894)

Debit

-0,00235

-0,00307

-0,00239

-0,00315

-0,00310

-0,00299

-0,00279

 

(0,00274)

(0,00271)

(0,00283)

(0,00281)

(0,00268)

(0,00272)

(0,00280)

Develop

-0,0494

0,00179

-0,0152

0,0430

-0,00443

0,0624

0,0321

 

(0,448)

(0,432)

(0,432)

(0,430)

(0,433)

(0,421)

(0,421)

Customs

 

0,492**

         
   

(0,224)

         

Infrastructure

   

0,595**

       
     

(0,257)

       

Shipments

     

0,673**

     
       

(0,314)

     

Logistics

       

0,589**

   
         

(0,284)

   

Tracking

         

0,488**

 
           

(0,234)

 

Timeliness

           

0,547*

             

(0,294)

Constant

-14,39***

-13,04***

-12,47***

-14,03***

-13,35***

-13,17***

-13,93***

 

(2,299)

(2,087)

(1,989)

(2,315)

(2,113)

(2,151)

(2,260)

               

Observations

69

69

69

69

69

69

69

R-squared

0,790

0,786

0,787

0,787

0,783

0,781

0,778

  Nguồn: Số liệu từ kết quả chạy mô hình hồi quy

Bảng 3 mô tả kết quả hồi quy các yếu tố ảnh hưởng tới Thương mại điện tử. Từ cột 1 Bảng 3 ta thấy được các biến LPI, GDP, dân số là những biến có tác động dương tới E-commerce và có ý nghĩa thống kê. Nghĩa là khi các biến đó tăng thì cũng thúc đẩy E-commerce tăng.  Trong đó, GDP cứ tăng lên 1% thì sẽ kéo theo E-commerce tăng 1,021% với mức ý nghĩa 1%. Điều đó cho thấy khi nền kinh tế càng tăng trưởng thì xu hướng phát triển Ecommerce càng tăng, bởi lẽ khi nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu mua sắm online, thanh toán qua thẻ, ... cũng phát triển dễ dàng hơn tạo động lực cho sự phát triển của E-commerce. Dân số cũng có tác động dương tới E-commerce với hệ số 1,033 với mức ý nghĩa 1%, khi quy mô dân số tăng thì cũng kéo theo sự phát triển của Thương mại điện tử.

Biến Debit Develop là hai biến không có tác động lên E-Commerce. Điều đó cho thấy rằng thẻ ghi nợ không tác động đến doanh thu của Thương mại điện tử, có thể vì trong Thương mại điện tử thẻ Credit được sử dụng phổ biến hơn nhưng do hạn chế về nguồn dữ liệu có sẵn, tác giả chưa thể có đủ dữ liệu để đánh giá được mối quan hệ giữa tỉ lệ dân số sử dụng thẻ tín dụng với doanh số Thương mại điện tử. Sự phát triển của một nền kinh tế không có tác động tới thương mại điện tử. Kết quả này ngược so với kỳ vọng của tác giả. Lý do có thể là vì số lượng quốc gia trong mẫu còn quá ít và hầu hết là các nước phát triển do đó chưa phản ánh được tác động của sự khác biệt về mức độ phát triển của các quốc gia tới thương mại điện tử.

Trong khi đó biến tác động lên E-Commerce ta quan tâm nhất đó chính là chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI), ở Bảng 3 ta thấy được LPI có tác động dương tới E- Commerce với hệ số ước lượng là 2,544 và mức ý nghĩa 5%, điều đó khẳng định được mối quan hệ thuận chiều giữa LPI và E-Commere, theo đó LPI càng tăng thì E-Commerce cũng sẽ tăng.

Để hiểu rõ hơn về tác động của các cấu phần của LPI tới thương mại điện tử, chúng tôi cũng đã tiến hành hồi quy tác động của các cấu phần này. Kết quả được thể hiện từ cột 2 đến cột 7 ở Bảng 3. Kết quả cho thấy tất cả các nhân tố hình thành lên LPI bao gồm Custom, Infastruture, Shipment, Logistics, Tracking, Timeliness đều có tác động tích cực lên E-Commerce, điều này cho thấy tác động của LPI và các nhân tố hình thành LPI với E-Commerce là vững và đồng nhất. Do vậy, khi chúng ta muốn tác động vào LPI để tăng E-Commrerce chúng ta cũng có thể tác động làm tăng tới một trong sáu nhân tố hình thành lên LPI. Trong các nhân tố đó thì Shipment là nhân tố trong LPI tác động lớn nhất tới E-Commerce cụ thể khi Shipment tăng 1 điểm thì E-Commerce tăng 0,673% với mức ý nghĩa 5% và độ lệch tiêu chuẩn là 0,314 điều đó có ý nghĩa khi đề xuất các biện pháp nhằm cải thiện LPI thì sẽ ưu tiên các biện pháp cải thiện Shipment (Vận tải) trước. Tracking là nhân tố tác động nhỏ nhất đến LPI với hệ số ước lượng là 0,488 với mức ý nghĩa 5%.

  1. Năng lực quốc gia về logistics và thương mại điện tử tại Việt Nam

5.1. Năng lực quốc gia về Logistics tại Việt Nam

            Nhìn chung, Logistics Việt Nam trong những năm gần đây đang giữ được đà tăng trưởng. Theo báo cáo Logistics Việt Nam 2018 của Bộ Công Thương thì tỉ lệ tăng trưởng của nghành năm 2018 đạt từ 12-14%, duy trì được mức tăng trưởng của những năm trước đó. Theo thống kê của World Bank, chỉ số năng lực quốc gia về Logistics của Việt Nam đang đứng ở top đầu của các thị trường mới nổi, đứng thứ 3 ASEAN, tăng tới 25 bậc so với LPI năm 2016 và đạt vị trí 39/160 quốc gia tiến hành điều tra. Đây là kết quả tốt nhất mà Việt Nam đã đạt được kể từ năm 2007 đến nay, nó thể hiện sự nỗ lực phát triển không không ngừng của các doanh nghiệp Logistics nói riêng và của chính phủ, các cấp ban ngành địa phương nói chung trong việc đẩy mạnh, cải tiến hoạt động, chính sách để cùng hướng tới mục tiêu nâng cao năng lực logistics tại Việt Nam.

 

 

Bảng 4. Bảng xếp hạng LPI của Việt Nam qua các năm

Năm

Thứ hạng LPI

Điểm LPI

Hải quan

Hạ tầng

Vận tải quốc tế

Năng lực logistics

Theo dõi và truy xuất

Thời gian

2007

53

2,89

2,89

2,5

3

2,8

2,9

3,22

2010

53

2,96

2,68

2,56

3,04

2,89

3,1

3,44

2012

53

3

2,65

2,68

3,14

2,68

3,16

3,64

2014

48

3,15

2,81

3,11

3,22

3,09

3,19

3,49

2016

64

2,98

2,75

2,7

3,12

2,88

2,84

3,5

2018

39

3,27

2,95

3,01

3,16

3,4

3,45

3,67

Nguồn: World Bank

5.2. Tình hình tăng trưởng của thương mại điện tử tại Việt Nam
Biểu đồ 1.Thực trạng hoạt động thương mại điện tử Việt Nam

Nguồn: Sách Trắng Thương mại điện tử Việt Nam

Biểu đồ 1 trên thể hiện mức tăng trưởng của TMĐT của Việt Nam ở các năm 2014, 2016, 2018. Từ 2014 đến 2018 mức tăng trưởng của ngành đã tăng gấp gần 3 lần, điều đó thể hiện tiềm năng phát triển của TMĐT tại Việt Nam là rất lớn. Năm 2018 là một năm với nhiều bước tiến đột phá của TMĐT, theo Sách Trắng Thương mại điện tử Việt Nam năm 2018 (Bộ Công Thương) thì “Quy mô thị trường TMĐT Việt Nam năm 2017 đạt 6,2 tỷ USD, đạt mức tăng trưởng 24%, ước tính số người tham gia mua sắm trực tuyến là 33,6 triệu người, giá trị mua sắm trực tuyến bình quân là 186 USD/người và tỷ trọng doanh thu thương mại điện tử B2C so với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước là 3,6%”.

 

6. Kết luận

Thương mại điện tử đang là xu hướng phát triển của thương mại thế giới, ở Việt Nam Thương mại điện tử cũng đang phát triển mạnh mẽ và thay đổi không ngừng. Để đáp ứng được sự phát triển đó thì vai trò của các doanh nghiệp Logistics, của các chính sách được đưa ra của các cấp quản lí là hết sức quan trọng. Hiểu được vai trò, tác động của Logistics đến với Thương mại điện tử sẽ là kim chỉ nam đưa ra các đề xuất phát triển Logistics để bắt kịp với xu hướng phát triển của Thương mại điện tử, gợi ý cho các cấp quản lí khi ban hành ra các chính sách mới.

Với việc chỉ ra mối quan hệ giữa LPI và Thương mại điện tử là cùng chiều ta có thể khẳng định lại một lần nữa tầm quan trọng của việc phát triển logistics đối với Thương mại điện tử. Hơn thế nữa, bằng việc chỉ ra trong các nhân tố hình thành lên LPI, Vận tải và Cơ sở hạ tầng là hai nhân tố tác động lớn nhất, ta có thể định hướng các đề xuất đưa ra. Theo đó, khi các nguồn lực không đủ để thực hiện các đề xuất được đưa ra, thì các đề xuất liên quan đến giảm chi phí vận tải và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng sẽ được ưu tiên thực hiện trước vì chúng đem lại hiệu quả cao nhất trong việc làm tăng LPI.

Với tình hình Logistics và Thương mại điện tử hiện tại của Việt Nam có nhiều chênh lệch trong tốc độ tăng trưởng thì việc tìm ra những đề xuất để giúp Logistics đuổi kịp được sự phát triển của Thương mại điện tử là rất cần thiết. Nếu không tìm ra và có các biện pháp kịp thời thì sự phát triển của Thương mại điện tử sẽ trở nên khó khăn hơn đồng thời với đó Logistics phục vụ thương mại điện tử nói riêng và Logistics nói chung sẽ vẫn gặp phải những khó khăn, vướng mắc hiện tại.

 

 

Tài liệu tham khảo

  1. Bộ công thương (2018), Báo cáo Logistics 2018: Logistics và thươgn mại điện tử.
  2. Caplice, C., & Sheffi, Y. (1994), “A review and evaluation of logistics metrics”, The International Journal of Logistics Management5(2), 11-28.
  3. Caplice, C., & Sheffi, Y. (1995), “A review and evaluation of logistics performance measurement systems”, The International Journal of Logistics Management6(1), 61-74.
  4. Chow, G., Heaver, T. D., & Henriksson, L. E. (1994), “Logistics performance: definition and measurement”, International Journal of Physical Distribution & Logistics Management24(1), 17-28.
  5. Gleason, J. M., & Barnum, D. T. (1982), “Toward valid measures of public sector productivity: performance measures in urban transit”, Management science28(4), 379-386.
  6. Gunasekaran, A., Patel, C., & Tirtiroglu, E. (2001), “Performance measures and metrics in a supply chain environment “, International Journal of Operations & Production Management21(1/2), 71-87.
  7. Hallowell, R. (1996), “The relationships of customer satisfaction, customer loyalty, and profitability: an empirical study”, International journal of service industry management7(4), 27-42.
  8. Hausman, W. H., Lee, H. L., & Subramanian, U. (2013), “The impact of logistics performance on trade”, Production and Operations Management22(2), 236-252.
  9. Hiệp hội thương mại Việt Nam (2018), Báo cáo Chỉ số Thương mại điện tử Việt Nam năm 2018.
  10. Ho, S. C., Kauffman, R. J., & Liang, T. P. (2007), “A growth theory perspective on B2C e-commerce growth in Europe: An exploratory study”, Electronic Commerce Research and Applications6(3), 237-259.
  11. Joong-Kun Cho, J., Ozment, J., & Sink, H. (2008), “Logistics capability, logistics outsourcing and firm performance in an e-commerce market”, International journal of physical distribution & logistics management38(5), 336-359.
  12. Korinek, J., & Sourdin, P. (2011), “To what extent are high-quality logistics services trade facilitating?”, OECD Trade Policy Working Papers 108, OECD Publishing, Paris.
  13. Marti, L., Puertas, R., & García, L. (2014), “Relevance of trade facilitation in emerging countries' exports”, The Journal of International Trade & Economic Development23(2), 202-222.
  14. Ramanathan, R. (2010), “The moderating roles of risk and efficiency on the relationship between logistics performance and customer loyalty in e-commerce”, Transportation Research Part E: Logistics and Transportation Review46(6), 950-962.
  15. Rhea, M. J., & Shrock, D. L. (1987), “Measuring the Effecitveness of Physical Distribution Custom”, Journal of Business Logistics8(1), 31.
  16. Sách Trắng về Thương mại và điện tử Việt Nam năm 2018 của Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số.
  17. Schramm-Klein, H., & Morschett, D. (2006), “The relationship between marketing performance, logistics performance and company performance for retail companies”, International Review of Retail, Distribution and Consumer Research16(02), 277-296.
  18. Sink, D. S., Tuttle, T. C., & DeVries, S. J. (1984), “Productivity measurement and evaluation: What is available?”, National Productivity Review3(3), 265-287.
  19. Yu, Y., Wang, X., Zhong, R. Y., & Huang, G. Q. (2016), “E-commerce logistics in supply chain management: Practice perspective”, Procedia Cirp52, 179-185.

 

 

 

 

 

[1] Khoa Kinh doanh quốc tế, Học viện Ngân hàng, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

[2] Học viện Ngân hàng, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

 

 

ẢNH HƯỞNG CỦA NĂNG LỰC GIẢNG VIÊN TỚI ĐỘNG LỰC HỌC TẬP VÀ KIẾN THỨC THU NHẬN CÁC MÔN CHUYÊN NGÀNH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

Nguyễn Ngọc Đạt[1]

 Đào Trung Kiên[2]

 Phạm Thị Ánh Dương[3]

Nguyễn Thị Thùy Linh[4]

Nguyễn Văn Duy[5]*

Tóm tắt

THE INFLUENCE OF LECTURER CAPABILITIES ON LEARNING MOTIVATION AND STUDENTS’ SPECIALIZED KNOWLEDGE ACQUISITION AT FOREIGN TRADE UNIVERSITY

Abstract

Key words: Lecturer capabilities, learning motivation, specialized knowledge acquisition.

H1

H4

H5

H3

H2

Năng lực giảng viên

Tổ chức môn học

Tương tác lớp học

Kiến thức thu nhận

Động lực học tập

Ấn tượng trường học

Cạnh tranh phát triển

Giảng dạy

Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất

Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả

  1. Phương pháp nghiên cứu

3.1. Thiết kế nghiên cứu

Bảng 1. Các nhân tố và biến quan sát trong mô hình

 

Nội dung câu hỏi

Tham khảo

Giảng viên

Giảng dạy

GD1

Giảng viên có kiến thức sâu về môn học

Abrantes & cộng sự (2007)

GD2

Giảng viên giảng giải các vấn đề trong môn học rất dễ hiểu

GD3

Giảng viên chuẩn bị bài giảng rất kỹ càng

Tổ chức lớp học

TC1

Mục tiêu, nội dung của môn học được giảng viên giới thiệu rất rõ ràng

Abrantes & cộng sự (2007)

TC2

Nội dung của môn học được sắp xếp có tính hệ thống cao

TC3

Anh/chị nắm rõ được mục đích và yêu cầu của môn học

TC4

Giảng viên làm rõ ngay từ đầu về kỳ vọng của họ đối với sinh viên ngay từ đầu môn học

Tương tác lớp học

TT1

Giảng viên khuyến khích sinh viên tham gia thảo luận về các nội dung môn học

Abrantes & cộng sự (2007)

TT2

Sinh viên trong lớp thường xuyên thảo luận với giảng viên về nội dung môn học

TT3

Giảng viên luôn tạo cơ hội cho sinh viên đặt câu hỏi trong lớp

TT4

Giảng viên khuyến khích sinh viên đưa ra các quan điểm, ý tưởng mới về môn học

II. Động lực học tập

DC1

Anh/chị dành nhiều thời gian cho môn học này

Cole & cộng sự (2004)

DC2

Anh/chị ưu tiên đầu tư cho việc học môn học này

DC3

Anh/chị học hết mình cho môn học này

DC4

Nhìn chung, anh/chị có động lực mạnh mẽ để học môn học này

III. Kiến thức thu nhận

KT1

Anh/chị đã tiếp nhận được nhiều kiến thức từ môn học này

Young & cộng sự (2003)

KT2

Anh/chị đã phát triển được nhiều kỹ năng từ môn học này

KT3

Anh/chị có thể ứng dụng kiến thức, kĩ năng từ môn học này cho các vấn đề thực tế

KT4

Nhìn chung, anh/chị học được nhiều kiến thức từ môn học này

IV. Ấn tượng trường học

AT1

Anh/chị tin rằng các nhà tuyển dụng có ấn tượng tốt về sinh viên của nhà trường

Aaker (1996), Balmer & Greyser (2006)

AT2

Anh/chị đã nghe nhiều tiếng tốt về danh tiếng của trường

AT3

Anh/chị tin rằng trường đại học đang học là một trường có danh tiếng

AT4

Danh tiếng trường đại học đang học có ảnh hưởng đến giá trị bằng cấp anh/chị nhận được

V. Cạnh tranh học tập

CT1

Anh/chị thấy thích thú việc cạnh tranh trong học tập vì nó giúp khám phá khả năng của bản thân

Nguyen & cộng sự (2005), Ryckman & cộng sự (1996)

CT2

Cạnh tranh trong học tập là phương tiện giúp anh/chị phát triển khả năng của mình

CT3

Cạnh tranh trong học tập giúp anh/chị học hỏi được từ chính mình và bạn học

CT4

Anh/chị thích thú với việc cạnh tranh trong học tập giữa các thành viên trong lớp

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

3.2. Chọn mẫu và phương pháp thu thập dữ liệu

Bảng 2. Mô tả mẫu điều tra

 Tiêu chí phân loại

Số sinh viên

Tỷ lệ (%)

Giới tính

Nữ

452

84.0

Nam

86

16.0

Sinh viên

Năm 2

307

57.5

Năm 3

196

36.5

Năm 4

31

5.8

Học vị

Thạc sỹ

241

45.4

Tiến sỹ

168

31.2

Không biết

126

23.4

Khó khăn

Giảng viên dạy khó tiếp thu

175

13.5%

Nội dung môn học không thu hút

256

19.7%

Nội dung môn học không thực tiễn

112

8.6%

Giáo trình không hay, truyền đạt khó hiểu

160

12.3%

Ít nguồn tài liệu tham khảo

161

12.4%

Cơ sở vật chất nhà trường không đáp ứng chương trình giảng dạy

152

11.7%

Chưa có phương pháp học tập phù hợp

281

21.7%

 

3.3. Phương pháp phân tích dữ liệu

  1. Kết quả nghiên cứu

4.1. Kết quả đánh giá sơ bộ thang đo

Bảng 3. Kết quả đánh giá tính tin cậy thang đo các nhân tố

 

Nhân tố

Hệ số Cronbach Alpha (số biến quan sát)

Khoảng tương quan biến tổng

KMO

TVE (%)

Factor loading bé nhất

Giảng viên

 

 

 

 

 

Giảng dạy 

0.825(3)

0.635 - 0.708

0.923

71.518

0.698

Tương tác lớp học

0.842(4)

0.620 - 0.706

0.715

Tổ chức lớp học

0.865(4)

0.685 - 0.763

0.686

Động cơ học tập

0.922 (4)

0.800 - 0.837

0.831

81.114

0.887

Kiến thức thu nhận

0.901 (4)

0.756 - 0.802

0.828

77.170

0.863

 

4.2. Kết quả phân tích mô hình tới hạn

Bảng 4. Hệ số tin cậy tổng hợp và phương sai trích các yếu tố trong mô hình

Nhân tố 

λ

λ2

1 -  λ2

Độ tin cậy tổng hợp

Phương sai trích

Giảng viên

GD

<---

GV

0.925

0.856

0.144

0.901

0.754

TC

<---

GV

0.923

0.852

0.148

TT

<---

GV

0.745

0.555

0.445

Giảng dạy 

GD3

<---

GD

0.802

0.643

0.357

0.829

0.619

GD2

<---

GD

0.838

0.702

0.298

GD1

<---

GD

0.715

0.511

0.489

Tổ chức lớp học 

TC4

<---

TC

0.766

0.587

0.413

0.861

0.608

TC3

<---

TC

0.772

0.596

0.404

TC2

<---

TC

0.765

0.585

0.415

TC1

<---

TC

0.814

0.663

0.337

Tương tác lớp học 

TT1

<---

TT

0.802

0.643

0.357

0.851

0.589

TT4

<---

TT

0.825

0.681

0.319

TT3

<---

TT

0.749

0.561

0.439

TT2

<---

TT

0.686

0.471

0.529

Động lực học tập 

DC4

<---

DC2

0.875

0.766

0.234

0.915

0.728

DC3

<---

DC2

0.902

0.814

0.186

DC2

<---

DC2

0.832

0.692

0.308

DC1

<---

DC2

0.801

0.642

0.358

Kiến thức thu nhận 

KT4

<---

KT

0.862

0.743

0.257

0.901

0.695

KT3

<---

KT

   0.792

0.627

0.373

KT2

<---

KT

0.832

0.692

0.308

KT1

<---

KT

0.847

0.717

0.283

 

4.3. Kết quả đánh giá các giá trị phân biệt

Bảng 5. Khoảng tin cậy 95% của các thang đo đơn hướng và thang đo đa hướng

Tương quan các biến

Hệ số tương quan

Khoảng tin cậy 95%

Cận dưới

Cận trên

DC

<-->

GV

0.585

0.499

0.663

DC

<-->

KT

0.738

0.666

0.799

KT

<-->

GV

0.782

0.730

0.838

 

4.4. Kết quả phân tích bằng mô hình cấu trúc tuyến tính

0.53

0.93

0.92

0.71

0.58

0.43

Động cơ học tập

Kiến thức thu  nhận

Giảng viên

Tương tác lớp học

Tổ chức lớp học

Giảng dạy

Chi-square/df= 2.416, CFI=0.971; GFI=0.933; TLI=0.965, IFI=0.971, RMSEA = 0.051 nhỏ hơn 0.08

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ghi chú: Có ý nghĩa thống kê                           Không có ý nghía thống kê

Hình 1. Quan hệ giữa các iến trong mô hình nghiên cứu

  1. Bàn luận và các hàm ý nghiên cứu

Tài liệu tham khảo

  1. Amrai, K., Motlagh, S. E., Zalani, H. A., & Parhon, H (2011). The relationship between academic motivation and academic achievement students. Procedia-Social and Behavioral Sciences, 15, 399-402.
  2. Astleitner, H. (2000), Designing emotionally sound instruction: The FEASP-approach, Instructional Science, 28 (3), 169–198.
  3. Carver, C. S., & Scheier, M. F. (1990). Origins and functions of positive and negative affect: A Control-Process View. Psychological Review, 97(1), 19–35.
  4. Clarke, T., & Hermens, A. (2001). Corporate developments and strategic alliances in e-learning. Education+ Training43(4/5), 256-267.
  5. Constanta, M. M., & Maria-Madela, A. (2011). Intrinsic and extrinsic motivation-An investigation of performance correlation. Annals of Faculty of Economics1(1), 671-677.
  6. Dörnyei, Z., & Csizér, K. (1998). Ten commandments for motivating language learners: Results of an empirical study. Language teaching research, 2(3), 203-229.
  7. Ginns, P., Prosser, M., & Barrie, S. (2007). Students’ perceptions of teaching quality in higher education: The perspective of currently enrolled students. Studies in Higher Education32(5), 603-615.
  8. Hammer Lo (2000). The addictive effects of semistructured classroom activities on student learning: An application of classroom-based experimental learning techniques. Journal of Marketing Education, 22(1) 25-34
  9. Kim, C., Park, S. W., & Cozart, J. (2013). Affective and motivational factors of online math learning, British Journal of Educational Technology. Link: http://dx.doi.org/10.1111/ j.14678535.2012.01382.x.
  10. Landrum, R. E. (1992). College students’ use of caffeine and its relationship to personality. College Student Journal26(2), 151-155.
  11. Marks, R. B. (2000). ‘Determinants of student evaluations of global measures of instructor and course value’, Journal of Marketing Education, 22(2), 108-119.
  12. Nguyen, T. T. M., & Nguyen, T. D. (2010). Determinants of learning performance of business students in a transitional market, Quality Assurance in Education, 18(4), 304–316.
  13. Tharenou, P. (2001). The relationship of training motivation to participation in training and development. Journal of Occupational and Organizational Psychology74(5), 599-621.
  14. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2018). Tác động Cách mạng công nghiệp 4.0 đến phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam.

 

 

[1] Trường Đại học Ngoại thương, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

[2] Trường Đại học Phenikaa, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

[3] Trường Đại học Ngoại thương, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

[4] Trường Đại học Ngoại thương, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

[5]* Công ty CP Phân tích Định lượng Tòan cầu, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

 VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG SÁNG TẠO VÀ BAO TRÙM Ở VIỆT NAM

(THE ROLE OF COMMUNITY TO INNOVATION-BASED AND INCLUSIVE GROWTH IN VIETNAM)

Bùi Anh Tuấn[1]

Vũ Hoàng Nam[2]

Nguyễn Thị Hải Yến[3]

Tóm tắt

Phát triển nhanh và bền vững là mục tiêu đặt ra của Việt Nam. Để có thể phát triển nhanh và bền vững với một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam, tăng trưởng sáng tạo và bao trùm là điều kiện cốt lõi. Nghiên cứu này cho thấy cơ chế thị trường, nhà nước và cộng đồng có vai trò là bệ đỡ cho tăng trưởng sáng tạo và bao trùm trong đó cơ chế cộng đồng bao gồm cộng đồng tự nhiên và cộng đồng nhân tạo có vai trò ngày càng quan trọng. Sự gia tăng toàn cầu hóa, cạnh tranh, hợp tác và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, của cách mạng công nghiệp 4.0 là những điều kiện thuận lợi để xây dựng, củng cố và phát huy vai trò của cơ chế cộng đồng đối với tăng trưởng sáng tạo và bao trùm của Việt Nam.

Từ khóa: Việt Nam, cộng đồng, tăng trưởng sáng tạo, tăng trưởng bao trùm.

 

Abstract

            Rapid and sustainable development is an important goal of Vietnam. For a transition economy like Vietnam to achieve that goal, innovation-based and inclusive growth plays a central role. This paper shows that market, state and community mechanisms are foundation for innovation-based and inclusive growth, among which natural and artificial communities are taking increasingly important roles. Increasing globalization, competition and cooperation, as well as development of science, technology and the Industrial Revolution 4.0 are favorable conditions for Vietnam to build, consolidate and stimulate the role of community to promote innovation-based and inclusive growth.

Key word: Vietnam, community, innovation-based growth, inclusive growth.

   

  1. Lời mở đầu

            Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đưa ra vào năm 2015 với 17 mục tiêu phát triển thay thế cho các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ đặt ra bài toán phát triển bền vững cho mọi quốc gia. Bên cạnh đó, sự bùng nổ của khoa học, công nghệ, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, gia tăng kết nối, tương tác, phụ thuộc toàn cầu cùng với mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt là những đặc trưng cho sự chuyển dịch của thế giới thời gian qua. Những yếu tố địa chính trị, thể chế, kinh tế, văn hóa, môi trường thay đổi nhanh chóng đã tác động lớn tới nền kinh tế thế giới và các mục tiêu, quá trình phát triển bền vững của từng quốc gia.

            Phát triển nhanh và bền vững là yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam. Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 đã xác định rõ “Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước”. Tăng trưởng kinh tế bền vững là định hướng ưu tiên hàng đầu của Việt Nam trong đó nâng cao chất lượng tăng trưởng, chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang kết hợp hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, sử dụng có hiệu quả khoa học, công nghệ để tăng năng suất lao động và nâng cao sức cạnh tranh là những nhiệm vụ trọng tâm để phát triển bền vững. Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam cũng nhấn mạnh giải pháp hàng đầu được đề ra để thực hiện chiến lược này là tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế phát triển bền vững và nâng cao chất lượng quản trị quốc gia. Đồng thời, tăng cường vai trò và tác động của khoa học, công nghệ, đẩy mạnh đổi mới công nghệ là giải pháp để tạo động lực cho phát triển bền vững.

            Phát triển kinh tế bền vững bao gồm ba trụ cột là tăng trưởng, các vấn đề xã hội và các vấn đề môi trường. Hai trụ cột tăng trưởng và các vấn đề xã hội tạo nên nội dung của phát triển kinh tế. Trong những năm gần đây, tăng trưởng sáng tạo và tăng trưởng bao trùm được đề cập tới như những thành phần quan trọng nhất của trụ cột tăng trưởng và trụ cột các vấn đề xã hội. Nói cách khác, phát triển kinh tế đồng nghĩa với đẩy mạnh tăng trưởng sáng tạo và tăng trưởng bao trùm trong bối cảnh bùng nổ khoa học, công nghệ và sự ảnh hưởng sâu rộng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

            Trong bối cảnh khoa học, công nghệ sẽ tiếp tục phát triển nhanh hơn nữa, câu hỏi thị trường, nhà nước và cộng đồng có tác động thế nào tới tăng trưởng sáng tạo và tăng trưởng bao trùm là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách để xây dựng các chiến lược phát triển bền vững trong giai đoạn tới (2020-2030) cho Việt Nam. Bài viết đưa ra những phân tích mới về vai trò của thị trường, nhà nước và cộng đồng (trong đó đề xuất gồm cộng đồng tự nhiên và cộng đồng nhân tạo) đối với tăng trưởng sáng tạo và tăng trưởng bao trùm ở Việt Nam.

  1. Các khái niệm

2.1. Khái niệm Cộng đồng

            Thị trường, nhà nước và cộng đồng là những khái niệm chuẩn tắc đã được sử dụng từ lâu trong kinh tế học, kinh tế học phát triển và kinh tế học thể chế. Theo Đặng (2004), đây là ba bàn tay đầy uy lực đã tạo nên quan hệ xã hội loài người. Mặc dù vậy, so với hai khái niệm thị trường và nhà nước, khái niệm cộng đồng là khái niệm tương đối mới. Có nhiều khái niệm khác nhau về cộng đồng (Hayami và Godo, 2005; Đặng, 2004) nhưng cộng đồng thường được hiểu là một nhóm người ràng buộc bởi sự tin tưởng lẫn nhau dựa trên các mối tương tác cá nhân chặt chẽ. Cộng đồng có phạm vi và quy mô từ nhỏ nhất như các gia đình, các nhóm cá nhân cho tới các hiệp hội doanh nghiệp, cộng đồng vùng, cộng đồng quốc gia, cộng đồng khu vực quốc tế và cộng đồng toàn cầu.

Nếu cơ chế vận hành của thị trường là giao dịch tự nguyện của các tác nhân kinh tế dựa trên tín hiệu của giá cả và cơ chế vận hành của nhà nước là kế hoạch, mệnh lệnh, sự bắt buộc dựa trên các luật lệ và quy định thì cơ chế của cộng đồng là sự tương tác giữa các cá nhân dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau. Theo Đặng (2004), cơ chế cộng đồng là cơ chế quan hệ và xử thế giữa từng cá nhân hoặc giữa các nhóm người với nhau theo một số quy luật trong xã hội loài người. Nguyên tắc của quan hệ cộng đồng là dựa trên trách nhiệm đối với cộng đồng và uy tín cá nhân.

Kinh tế học thể chế nhấn mạnh trong quá trình vận hành, thị trường có thể gặp thất bại. Do vậy cần phải có nhà nước để khắc phục các thất bại của thị trường. Thế nhưng chính nhà nước cũng có thể gặp phải thất bại. Nhiều nghiên cứu còn chỉ ra rằng đôi khi thất bại của nhà nước còn lớn hơn nhiều so với thất bại của thị trường. Trong những trường hợp thị trường và nhà nước đều thất bại, cộng đồng là cơ chế hữu hiệu để thay thế. Cộng đồng đặc biệt hữu hiệu trong việc quản lý các nguồn lực chung như các con sông, cánh rừng xa xôi, hẻo lánh… nơi cơ chế thị trường và nhà nước không thể phát huy hiệu quả.

Cộng đồng có thể được hình thành dần dần trong lịch sử một cách tự nhiên như các cộng đồng bộ tộc, làng, xã… (cộng đồng tự nhiên) nhưng cũng có thể được con người, tổ chức hình thành một cách có chủ đích như các hiệp hội nghề nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp (cộng đồng nhân tạo). Các Keiretsu của Nhật Bản xưa kia mà điển hình là Tập đoàn Toyota đã tạo nên một mạng lưới các nhà cung cấp nhiều tầng lớp để cung cấp linh phụ kiện cho việc sản xuất ô tô mà ở đó sự tin tưởng, uy tín của từng nhà cung cấp phát huy tác dụng, giảm thiểu chi phí giao dịch, tăng cường hiệu quả của toàn hệ thống sản xuất của Toyota (Hayami và Godo, 2005). Các hợp đồng dài hạn được ký kết giữa Toyota và các nhà cung cấp giúp các nhà cung cấp yên tâm đầu tư công nghệ mới với cam kết mua linh phụ kiện của Toyota. Toyota cũng đồng sở hữu các nhà cung cấp, hỗ trợ kỹ thuật và tín dụng cho các nhà cung cấp. Nói cách khác, Toyota đã tạo ra và vận hành một cơ chế cộng đồng nhân tạo với các nhà thầu phụ để sản xuất các linh phụ kiện đặc thù, phức tạp, đòi hỏi nhiều đầu tư mà cơ chế thị trường không thể giải quyết được.

Trước đây, các cộng đồng truyền thống như bộ lạc và làng xã thường được gắn với sự lạc hậu, truyền thống cản trở các yếu tố hiện đại, cản trở sự phát triển. Cộng đồng có thể Giờ đây, cần phải nhận thức khác và cần phải coi cộng đồng chính là một bàn tay hữu hiệu, một cơ chế quan trọng để khắc phục các thất bại của thị trường và thất bại của nhà nước.

Sự phát triển của cộng đồng đòi hỏi các điều kiện để sợi dây liên kết giữa các cá nhân ngày càng chặt chẽ, hiệu quả và các công cụ để thúc đẩy, kiểm soát sự tin tưởng lẫn nhau giữa các cá nhân trong cộng đồng. Khi số lượng các cá nhân của cộng đồng ngày càng lớn thì chi phí giao dịch của cộng đồng càng cao và cộng đồng càng khó hình thành cũng như hoạt động hiệu quả. Công nghệ thông tin, internet, các mạng xã hội… chính là những công cụ hữu hiệu để các cá nhân trong cộng đồng kết nối, liên kết, duy trì, thúc đẩy sự phát triển chung của cộng đồng.

Nói tóm lại, chức năng chủ yếu của thị trường là điều phối hoạt động tìm kiếm lợi nhuận của các cá nhân thông qua các giao dịch tự do, tự nguyện dưới sự dẫn dắt của giá cả, để đạt hiệu quả sản xuất và tiêu dùng xã hội tối ưu đối với các hàng hoá tư nhân; chức năng chủ yếu của nhà nước là cung ứng hàng hoá công cộng bằng quyền cưỡng chế hợp pháp của mình thông qua các kế hoạch, mệnh lệnh và sự bắt buộc dựa trên các luật lệ và quy định. Trong khi đó, cộng đồng có chức năng khắc phục các thất bại của thị trường và nhà nước thông qua sự tương tác giữa các cá nhân dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau (hợp tác dựa trên sự đồng thuận, điều phối sự phân công lao động theo hướng mà xã hội mong muốn).

2.2. Tăng trưởng sáng tạo

            Tăng trưởng sáng tạo (Innovation-based growth) là tăng trưởng kinh tế dựa trên đổi mới, sáng tạo (innovation). Đổi mới sáng tạo trở thành động lực của tăng trưởng. Các nghiên cứu đầu tiên có những khía cạnh nhất định đề cập tới vai trò của đổi mới, sáng tạo đối với tăng trưởng đã được thực hiện từ thế kỷ 18 (ví dụ Adam Smith, 1776; Karl Marx, 1867). Tuy vậy, các mô hình tăng trưởng tân cổ điển chủ yếu đề cập tới vai trò của lao động và vốn đối với tăng trưởng. Các lý thuyết và nghiên cứu định lượng đặt trọng tâm vào đổi mới, sáng tạo như là động lực chính của tăng trưởng mới chỉ được thực hiện vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Theo các nghiên cứu này, các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) giữ vai trò quyết định đối với đổi mới, sáng tạo. Đổi mới, sáng tạo làm tăng năng suất và do đó đổi mới, sáng tạo đóng vai trò là động lực tạo ra tăng trưởng.

            Theo OECD (2005), đổi mới, sáng tạo được phân loại thành: 1) đổi mới, sáng tạo về sản phẩm; 2) đổi mới, sáng tạo về quy trình sản xuất; 3) đổi mới, sáng tạo về marketing; 4) đổi mới, sáng tạo về tổ chức. Theo Hayami and Godo (2005), đối với các nước đang phát triển nếu đổi mới, sáng tạo được hiểu là những phát minh, sáng chế hoàn toàn mới thì sẽ có rất ít hoạt động đổi mới, sáng tạo. Các hoạt động đổi mới, sáng tạo ở các nước đang phát triển nên được hiểu theo cách của Schumpeter theo đó đổi mới sáng tạo được hiểu là quá trình các doanh nhân đưa ra các phương thức mới kết hợp các yếu tố đầu vào để tạo ra các sản phẩm dịch vụ. Đổi mới có thể diễn ra dưới nhiều hình thức như: tạo ra sản phẩm mới hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hiện tại; đưa ra quy trình sản xuất mới; tìm kiếm các thị trường mới cho sản phẩm; tìm được nguồn cung cấp nguyên vật liệu mới; phát triển cấu trúc ngành mới. Theo Schumpeter, có hai nhóm doanh nghiệp. Nhóm doanh nghiệp thành công với các hoạt động đổi mới, sáng tạo gọi là nhóm tiên phong. Nhờ các hoạt động đổi mới, sáng tạo các doanh nghiệp tiên phong sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch. Chỉ có số ít doanh nghiệp dám chấp nhận rủi ro để tiến hành các hoạt động đổi mới, sáng tạo. Sau khi doanh nghiệp tiên phong đã thành công thì các doanh nghiệp theo sau sẽ sao chép các đổi mới, sáng tạo. Khi đó doanh nghiệp tiên phong không còn giữ được vị trí độc quyền trên thị trường và giá bán sản phẩm, dịch vụ giảm. Các doanh nghiệp tiên phong sẽ lại phải tiếp tục đổi mới và sáng tạo để duy trì vị thế dẫn đầu.

2.3. Tăng trưởng bao trùm

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD (2014) đã tổng hợp quan điểm của một số tổ chức quốc tế về tăng trưởng bao trùm. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), tăng trưởng bao trùm đề cập đến hai khía cạnh có quan hệ tương hỗ và thường được xem xét đồng thời là tốc độ tăng trưởng và phương thức tăng trưởng. Theo cách tiếp cận của WB thì tốc độ tăng trưởng nhanh là cần thiết để giảm tình trạng đói nghèo tuyệt đối, nhưng để sự tăng trưởng đó được bền vững trong dài hạn thì sự tăng trưởng cần diễn ra trong nhiều ngành, bao trùm phần lớn lực lượng lao động của quốc gia. Quan điểm này hàm chứa mối quan hệ trực tiếp giữa các nhân tố tăng trưởng ở tầm vĩ mô và vi mô. Vì thế, tăng trưởng bao trùm tập trung vào lực lượng lao động có năng suất, chứ không phải lực lượng lao động đơn thuần về lượng và cũng không tập trung vào hiện trạng phân phối thu nhập. Tăng trưởng việc làm đề cập tới sự gia tăng số lượng việc làm mới và gia tăng thu nhập, trong khi tăng trưởng năng suất cho phép tăng lương của người lao động và tăng thu nhập cho những người tự doanh. Cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới nghiêng về triển vọng dài hạn và tăng trưởng bền vững với ý nghĩa của “sự bao trùm” là bình đẳng về cơ hội tiếp cận thị trường, nguồn lực sản xuất và một môi trường kinh doanh công bằng cho các doanh nghiệp và cá nhân.

            Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) coi tăng trưởng bao trùm là một trong các mục tiêu chính trong chiến lược tổng thể 2020 của mình. Theo ADB, tăng trưởng bao trùm là một khái niệm rộng hơn khái niệm tăng trưởng thông thường. Tăng trưởng bao trùm không chỉ là sự tăng trưởng cho phép tạo cơ hội kinh tế mới cho người dân mà còn đảm bảo sự tiếp cận cơ hội một cách bình đẳng đối với tất cả các nhóm người trong xã hội, đặc biệt là người nghèo. Sự tăng trưởng về thu nhập sẽ được coi là tăng trưởng bao trùm khi: (i) quá trình tăng trưởng đó cho phép tất cả các thành viên trong xã hội, đặc biệt nhấn mạnh tới người nghèo và người yếu thế, được tham gia đóng góp cho quá trình tăng trưởng (khía cạnh quá trình của sự tăng trưởng); và (ii) quá trình tăng trưởng đó diễn ra cùng với tình trạng giảm bất bình đẳng ở các khía cạnh phúc lợi khác ngoài thu nhập có vai trò quan trọng trọng việc tạo ra các cơ hội kinh tế như giáo dục, y tế, dinh dưỡng và hòa nhập xã hội (khía cạnh thành quả của sự tăng trưởng).

            Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) cho rằng tăng trưởng bao trùm cần được xem xét ở cả hai khía cạnh: quá trình và thành quả. Ở khía cạnh quá trình, tăng trưởng bao trùm đảm bảo mọi thành viên xã hội đều có thể tham gia vào quá trình tăng trưởng, bao gồm cả quá trình ra quyết định và tham gia vào chính quá trình tăng trưởng. Ở khía cạnh thành quả, tăng trưởng bao trùm cho phép mọi thành viên xã hội đều được hưởng thụ một cách công bằng các lợi ích của tăng trưởng. Do vậy, tăng trưởng bao trùm nhấn mạnh sự đóng góp và hưởng thụ các thành quả của tăng trưởng.

            Chiến lược Châu Âu 2020 lựa chọn khái niệm tăng trưởng bao trùm làm trọng tâm, theo đó tăng trưởng bao trùm là tăng vị thế con người thông qua mức công ăn việc làm cao, đầu tư phát triển kỹ năng cho con người, đấu tranh chống đói nghèo và hiện đại hóa thị trường lao động, hệ thống giáo dục và an sinh xã hội nhằm giúp con người tham gia vào quá trình thay đổi, kiểm soát sự thay đổi và xây dựng một xã hội gắn kết. Một trong các vấn đề quan trọng là phân bổ các lợi ích từ tăng trưởng kinh tế cho tất cả các vùng miền thuộc Liên minh Châu Âu, bao gồm cả các vùng xa xôi, tăng sức mạnh liên kết lãnh thổ. Tăng trưởng bao trùm là đảm bảo sự tiếp cận nguồn lực và cơ hội cho tất cả các thành viên xã hội trong suốt cuộc đời họ.

            Từ quan điểm của các tổ chức quốc tế về tăng trưởng bao trùm, chúng ta có thể tổng hợp các khía cạnh quan trọng của tăng trưởng bao trùm. Thứ nhất, tăng trưởng thu nhập đầu người là điều kiện quan trọng hàng đầu làm bệ đỡ cho tăng trưởng bao trùm. Thứ hai, gia tăng việc làm, đặc biệt là việc làm có năng suất cao là một thành phần quan trọng trong mô hình tăng trưởng bao trùm. Thứ ba, nâng cao năng lực của người lao động là một yếu tố quan trọng giúp gia tăng việc làm, đặc biệt là việc làm có năng suất cao và đóng góp tích cực vào tăng trưởng bao trùm. Thứ tư, quá trình tăng trưởng sẽ không thể gọi là bao trùm nếu nó không góp phần giảm nghèo, bao gồm cả nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Thứ năm, thu hẹp bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực xã hội, tiếp cận dịch vụ giáo dục và y tế, cũng như trong phân phối thu nhập là một nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược tăng trưởng bao trùm của từng quốc gia cũng như toàn thế giới. Thứ sáu, an sinh xã hội bao gồm các chính sách bảo hiểm, lương hưu… là một khía cạnh cần được đặc biệt nhấn mạnh trong chính sách phát triển của các nước đang phát triển.

  1. Vai trò của cộng đồng với tăng trưởng sáng tạo và bao trùm

Schumpeter (1934) coi đổi mới, sáng tạo là động lực của tăng trưởng và phát triển. Hoạt động đổi mới, sáng tạo luôn cần phải có sự đầu tư, ví dụ như đầu tư cho giáo dục, đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D). Nếu không có sự đầu tư thì hoạt động đổi mới, sáng tạo sẽ không thể diễn ra. Tuy nhiên, đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học, đầu tư cho giáo dục… chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để tạo ra tăng trưởng và phát triển vì hai lý do. Thứ nhất, đầu tư chưa chắc đã tạo ra được đổi mới, sáng tạo. Đối với các nước đang phát triển, xác suất đổi mới, sáng tạo thành công là thấp do năng lực đổi mới, sáng tạo của các doanh nghiệp trong nền kinh tế hạn chế. Năng lực đổi mới, sáng tạo hạn chế cũng có thể là do môi trường, các chính sách không hỗ trợ cho việc nâng cao năng lực đổi mới, sáng tạo của các doanh nghiệp. Thứ hai, đầu tư có thể đem lại đổi mới, sáng tạo nhưng những đổi mới, sáng tạo đó có thể hoàn toàn không phát huy hiệu quả nếu cơ chế, môi trường, các thị trường và các điều kiện của thị trường không hoàn thiện, không hỗ trợ cho các kết quả đổi mới, sáng tạo đó.

            OECD (2006) đã tổng hợp các yếu tố góp phần gia tăng hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) và đổi mới, sáng tạo bao gồm: 1) các quy định giúp tăng tính cạnh tranh của các thị trường sản phẩm, lao động…; 2) chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; 3) các cân đối vĩ mô được đảm bảo; 4) môi trường kinh doanh hiệu quả giúp giảm chi phí đầu tư cho hoạt động đổi mới, sáng tạo; 5) nguồn tài chính có thể tiếp cận dễ dàng; 6) hệ thống giáo dục và nghiên cứu cơ bản có chất lượng cao được khuyến khích, hỗ trợ; 7) thuế hỗ trợ cho hoạt động R&D; 8) nền kinh tế mở đối với các hoạt động R&D của nước ngoài; 9) luật và thực thi luật sở hữu trí tuệ một cách hợp lý; 10) sự phát triển của internet.

            Cũng theo OECD, để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo năm ưu tiên hàng đầu mà các Chính phủ cần phải thực hiện bao gồm: 1) Nâng cao năng lực đổi mới, sáng tạo của các cá nhân; 2) Xóa bỏ những cản trở đối với các hoạt động đổi mới, sáng tạo của các doanh nghiệp; 3) Sáng tạo các tri thức mới và ứng dụng các tri thức đó; 4) Ứng dụng đổi mới, sáng tạo để giải quyết các thách thức của xã hội và toàn cầu; 5) Đổi mới cơ chế quản lý để thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Tựu trung lại, để có tăng trưởng sáng tạo cần xây dựng một thể chế nhằm thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và hỗ trợ để các đổi mới, sáng tạo phát huy hiệu quả, đóng góp vào quá trình tăng trưởng. Cụ thể hơn, thể chế cần phải được xây dựng để có thể: 1) đảm bảo các điều kiện trong để thực hiện đổi mới, sáng tạo thành công trong đó nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo là yếu tố cốt lõi; 2) tạo ra một môi trường thuận lợi để các đổi mới, sáng tạo phát huy hiệu quả, đóng góp vào quá trình tăng trưởng kinh tế trong đó cải thiện hạ tầng công nghệ có vai trò then chốt. Hạ tầng công nghệ đề cập tới mạng lưới các tổ chức nghiên cứu, hệ thống giáo dục, các quy định bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Đây cũng chính là nền tảng để nâng cao năng lực đổi mới, sáng tạo. Để các đổi mới, sáng tạo phát huy hiệu quả và đóng góp vào quá trình tăng trưởng kinh tế cần phải giảm thiểu các rủi ro trong quá trình ứng dụng các đổi mới, sáng tạo thông qua thúc đẩy tương tác giữa các cơ sở giáo dục đại học và khu vực doanh nghiệp, khuyến khích các nghiên cứu chung, giảm thuế cho quá trình thương mại hóa kết quả đổi mới, sáng tạo.

            Thị trường có vai trò quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực hay các điều kiện cần và đủ cho đổi mới, sáng tạo. Thị trường càng hoàn hảo thì nguồn lực hay các điều kiện cần và đủ càng được phân bổ tối ưu. Đồng thời, thị trường sẽ trả lời cho câu hỏi hoạt động đổi mới, sáng tạo nào sẽ thành công một cách hiệu quả nhất. Nói cách khác, thị trường sẽ quyết định “người đi tiên phong” trong hoạt động đổi mới, sáng tạo. Mặc dù vậy, khi bị thất bại, thị trường không thể phân bổ nguồn lực một cách tối ưu cho hoạt động đổi mới, sáng tạo và không thể xác định được “người đi tiên phong”. Bên cạnh đó, thị trường khi vận hành với cơ chế dịch chuyển nguồn lực tới nơi sử dụng hiệu quả nhất sẽ không cho phép những nhóm yếm thế trong xã hội có cơ hội tham gia và hưởng lợi từ quá trình tăng trưởng và mục tiêu tăng trưởng bao trùm khó có thể được hiện thực hóa. Nhà nước cũng có vai trò quan trọng đối với hoạt động đổi mới, sáng tạo để khắc phục các thất bại của thị trường. Trước hết, Nhà nước chính là chủ thể thiết kế và vận hành các chính sách thúc đẩy đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D). Nhà nước là chủ thể phát triển hạ tầng công nghệ. Nhà nước ban hành và thực thi các chính sách về khoa học và công nghệ. Nhà nước giữ vai trò quan trọng để ban hành và đảm bảo Luật sở hữu trí tuệ được thực thi, quyền sở hữu trí tuệ được đảm bảo để bảo vệ các kết quả của hoạt động đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, kết quả của đổi mới, sáng tạo.     Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam khi thị trường không hoàn hảo và có nhiều thất bại, vai trò của Nhà nước đối với đổi mới, sáng tạo càng quan trọng. Thị trường đổi mới, sáng tạo là thị trường có độ phức tạp cao nhất, đòi hỏi các điều kiện khắt khe nhất để có thể vận hành một cách hoàn hảo. Do vậy, Nhà nước sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các điều kiện đảm bảo cho thị trường này vận hành và khắc phục những thất bại tiềm ẩn của thị trường này. Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng để kiến tạo tăng trưởng bao trùm. Nếu mục tiêu tăng trưởng bao trùm được đặt ra thì cơ chế thị trường không thể được sử dụng độc lập để đạt được mục tiêu này. Thông qua các chính sách, quy định, nhà nước sẽ điều chỉnh sự phân bổ nguồn lực cho các nhóm khác nhau trong xã hội và khuyến khích, hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của các nhóm yếu thế, các lĩnh vực cần phát triển để đạt được tăng trưởng bao trùm.

            Bên cạnh Thị trường và Nhà nước, Cộng đồng là thể chế quan trọng hỗ trợ cho các hoạt động đổi mới, sáng tạo vì cơ chế dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau của cộng đồng giúp giảm các chi phí liên quan tới hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) và hoạt động đổi mới, sáng tạo. Cộng đồng cũng giúp giảm chi phí thương mại hóa các sản phẩm đổi mới, sáng tạo và do đó gia tăng sự đóng góp của đổi mới, sáng tạo vào tăng trưởng kinh tế.

            Thể chế cộng đồng là thể chế hữu hiệu đối với các nguồn lực chung. Các thông tin ví dụ như về công nghệ và thị trường là yếu tố đầu vào quan trọng đối với hoạt động đổi mới, sáng tạo và có thể trở thành nguồn lực chung. Thể chế cộng đồng có thể thúc đẩy đổi mới, sáng tạo vì thể chế cộng đồng giúp khai thác các thông tin này một cách hiệu quả hơn. Thể chế cộng đồng cũng là thể chế hữu hiệu để giải quyết vấn đề tắc nghẽn (hold-up problem) trong việc đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của các chủ thể trong hệ sinh thái đổi mới, sáng tạo của các quốc gia cũng như trong chuỗi giá trị của các doanh nghiệp.

            Xuất phát từ nền kinh tế lúa nước cộng với nền văn hóa Á Đông, cộng đồng tự nhiên ở Việt Nam đã tồn tại từ hàng nghìn năm nay. Cơ chế chia sẻ, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau tạo nên giá trị văn hóa của Việt Nam. Dù có những mặt hạn chế, cơ chế cộng đồng tự nhiên ở Việt Nam đã và đang giữ vai trò quan trọng phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh nông nghiệp và phi nông nghiệp trong khu vực nông nghiệp, nông thôn. Sự phát triển của hơn 5.000 làng nghề ở Việt Nam hiện nay là một ví dụ điển hình cho vai trò của cơ chế cộng đồng tự nhiên.

Với một nền kinh tế trong đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm hơn 96% tổng số các doanh nghiệp và phần lớn hộ nông dân trong khu vực nông nghiệp có quy mô nhỏ, phân bố phân tán, sự liên kết giữa các doanh nghiệp, hộ nông dân để cùng phát triển có ý nghĩa hết sức quan trọng. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp và hộ nông dân có quy mô nhỏ không chỉ giúp chia sẻ các nguồn lực chung, tập trung sức mạnh để đầu tư cho nghiên cứu phát triển, thương mại hóa các kết quả đổi mới, sáng tạo đóng góp cho tăng trưởng sáng tạo mà còn giúp các doanh nghiệp, hộ nông dân có quy mô nhỏ và siêu nhỏ gắn kết với chuỗi giá trị trong nước và chuỗi giá trị toàn cầu từ đó tham gia vào và hưởng lợi từ quá trình tăng trưởng. Cơ chế cộng đồng nhân tạo cần phải được phát huy để mục tiêu tăng trưởng bao trùm được hiện thực hóa.

Ví dụ thứ nhất về vai trò của cộng đồng đối với tăng trưởng sáng tạo và bao trùm là sự liên kết của các doanh nghiệp để xây dựng, đăng ký bảo hộ và khai thác chỉ dẫn địa lý để xây dựng thương hiệu đối với các sản phẩm đặc sản của Việt Nam. Cơ chế cộng đồng giúp giảm chi phí xây dựng, bảo vệ và khai thác chỉ dẫn địa lý. Nếu cơ chế cộng đồng không hoạt động hiệu quả chi phí để bảo vệ chỉ dẫn địa lý, kể cả trong trường hợp đã được đăng ký sở hữu trí tuệ, sẽ rất cao khi có cá nhân, doanh nghiệp tìm cách lợi dụng chỉ dẫn địa lý để kiếm tư lợi.

Ví dụ thứ hai về vai trò của cộng đồng đối với tăng trưởng sáng tạo và bao trùm là sự liên kết của các hộ nông dân có quy mô nhỏ, lẻ (ví dụ các hộ nuôi tôm ở khu vực miền Tây, các hộ trồng lúa ở phía Nam…) thành các nhóm nông hộ để cùng thực hiện các hoạt động mua đầu vào, áp dụng công nghệ mới, tiêu chuẩn sản xuất quốc tế, bán sản phẩm trong quá trình sản xuất và thương mại. Bên cạnh đó còn phải kể tới các hiệp hội ngành hàng đang hoạt động và hỗ trợ tốt cho nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam.

  1. Tăng trưởng sáng tạo và bao trùm ở Việt Nam

4.1. Tăng trưởng sáng tạo ở Việt Nam

Theo số liệu của báo cáo Global Innovation Index 2018 (WIPO, 2018), chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam thời gian qua liên tục tăng. So với nhóm các nước trong khu vực ASEAN, các chỉ số về giáo dục đào tạo và thương hiệu của Việt Nam được xếp hạng ở mức cao. Mặc dù vậy, các chỉ số về giáo dục đại học, chỉ số hợp tác giữa các cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp, số lượng việc làm sử dụng nhiều kỹ năng trên thị trường lao động ở Việt Nam còn thấp. Việt Nam cũng được xếp hạng cao về công bố khoa học. Chính phủ Việt Nam đã phân cấp cho các Bộ và chính quyền địa phương để cải thiện chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam. Bộ Khoa học và Công nghệ của Việt Nam đã xuất bản sổ tay hướng dẫn về GII để các Bộ, Ban, Ngành và các địa phương có thể triển khai việc cải thiện chỉ số đổi mới sáng tạo một cách hiệu quả hơn. Các chỉ tiêu trong báo cáo GII hiện nay đã được coi là các mục tiêu quan trọng trong các kế hoạch phát triển ở cấp trung ương và địa phương ở Việt Nam.

Việt Nam trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp về chỉ số đổi mới, sáng tạo toàn cầu. Năm 2017, chỉ số này của Việt Nam tăng 12 bậc và năm 2018 tăng 2 bậc. Việt Nam hiện xếp thứ 45/126 về chỉ số này. Nhóm chỉ số về tri thức - công nghệ của Việt Nam xếp thứ 28. Số lượng đơn đăng ký sáng chế đã nộp tại Cục Sở hữu trí tuệ của Việt Nam tăng gần gấp đôi trong giai đoạn 10 năm trở lại đây đạt hơn 6.000 đơn vào năm 2018.

Việt Nam được xếp hạng cao về năng lực cạnh tranh theo Chỉ số cạnh tranh toàn cầu (Global Competitiveness Index). Trong năm 2018, chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam đạt 4,36 điểm và Việt Nam xếp hạng thứ 55 trong tổng số 137 quốc gia. Tuy vậy, so với các quốc gia trong khu vực ASEAN, năng lực cạnh tranh của Việt Nam còn đứng sau Singapore, Brunei, Malaysia, Thai Lan, và Indonesia. Tuy vậy, các yếu tố về đổi mới sáng tạo của Việt Nam chỉ đạt 3,49 điểm và xếp hạng thứ 84 trên thế giới. Như vậy, xếp hạng về yếu tố đổi mới sáng tạo của Việt Nam chỉ ngang với xếp hạng của Lào. So với những quốc gia trong khu vực ASEAN có chỉ số năng lực cạnh tranh thấp hơn thì Việt Nam có chỉ số đổi mới sáng tạo xếp sau Philippines. Điều này cho thấy năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam còn nhiều hạn chế.

Để đạt được kết quả nói trên, cả khu vực tư và khu vực công đều diễn ra các hoạt động đầu tư mạnh cho khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo. Nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn đã đầu tư mạnh cho khoa học, công nghệ như Viettel, VNPT... Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm hơn 96% số lượng các doanh nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế) cũng đã đẩy mạnh các hoạt động đổi mới về sản phẩm, quy trình sản xuất, marketing, tổ chức. Đầu tư cho khoa học, công nghệ ở khu vực công ngày càng quan trọng. Tỷ trọng đầu tư cho khoa học công nghệ giữa nhà nước và doanh nghiệp đã tăng từ mức 7:3 lên mức gần ngang nhau trong những năm gần đây.

Theo đánh giá của WB (2019), Việt Nam có nhiều điểm mạnh trong hệ thống khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo trong đó phải kể tới những nỗ lực để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, hệ thống giáo dục trung học tốt, các thế mạnh về toán học, nghiên cứu nông nghiệp, sinh học cùng với những tiến bộ trong việc phát triển các tổ chức và thể chế hỗ trợ đổi mới, sáng tạo. Mặc dù vậy, Việt Nam còn nhiều điểm yếu bao gồm: còn nhiều cản trở đối với hoạt động đổi mới, sáng tạo, hệ thống hạ tầng còn hạn chế, hoạt động đổi mới, sáng tạo trong khu vực doanh nghiệp và hệ thống nghiên cứu cơ bản còn yếu, các chính sách thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới, sáng tạo còn nhiều hạn chế.

Ở khía cạnh quản lý, các thủ tục hành chính được tháo gỡ, tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích các nhà khoa học, tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp tham gia nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, ứng dụng và đổi mới công nghệ, đưa doanh nghiệp trở thành trung tâm của hệ thống sáng tạo quốc gia. Môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp sáng tạo và sự phát triển của hệ thống sáng tạo quốc gia cũng được cải thiện. Các hướng công nghệ ưu tiên phát triển nhằm tận dụng cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã được đề xuất. Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành năm 2005 thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc thực thi các tiêu chuẩn quốc tế về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và góp phần quan trọng thúc đẩy đầu tư và nghiên cứu và phát triển (R&D). Các đề án, chương trình đã được xây dựng để hỗ trợ cho hoạt động đổi mới, sáng tạo như Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”, Chương trình Kết nối mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam, Trung tâm Đổi mới sáng tạo về Internet vạn vật…

 Trên thực tế khoa học và công nghệ và đổi mới, sáng tạo đã có nhiều đóng góp trong tăng trưởng kinh tế nói chung và cho từng ngành nói riêng như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ y tế, ngân hàng... Trong giai đoạn 2011-2015, đóng góp của TFP vào tăng trưởng của Việt Nam đạt mức cao nhất khoảng hơn 28% (CIEM, 2017). Trong giai đoạn 2016-2018, đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế đạt hơn 43% và dự kiến trong giai đoạn tới tỷ trọng này sẽ cao hơn (TBTCVN, 2019). Sự gia tăng tỷ trọng đóng góp của TFP vào tăng trưởng cho thấy vai trò của đổi mới, sáng tạo đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.

Tuy vậy, tỷ lệ này là khá thấp so với các nước khác trong khu vực (ví dụ ở Thái Lan là 70%, Malaysia là 63%). TFP cũng mới chỉ đóng góp một phần nhỏ vào tăng năng suất lao động so với tăng cường độ vốn. Điều này dẫn tới năng suất lao động của Việt Nam tăng chậm và ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Sự gia tăng TFP trong những năm gần đây chủ yếu là do sự cải thiện các yếu tố vĩ mô mà chưa phải do các hoạt động đổi mới, sáng tạo mang lại nên hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn thấp.

Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển (R&D) cả khu vực nhà nước và tư nhân của Việt Nam hiện nay chỉ khoảng 0,44% GDP, khá thấp so với bình quân của thế giới là 2,23% GDP (Thái Lan 0,78%; Singapore 2,2%; Malaysia 1,3%, Trung Quốc 2,1% GDP).

4.2. Tăng trưởng bao trùm ở Việt Nam

Về thu nhập và việc làm

            Các số liệu thống kê (xem cụ thể trong Phụ lục) phản ánh thực trạng tăng trưởng bao trùm của Việt Nam cho thấy Việt Nam có tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn so với các quốc gia khác trên thế giới. So với các nước đang phát triển khác và so với cả các nước có tốc độ tăng trưởng GDP nhanh trong khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng GDP cao. Do vậy, thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam tăng lên nhanh chóng trong hơn 20 năm qua và đạt tới mức gần 2.500 USD người/năm. Sự mở rộng nhanh chóng của quy mô nền kinh tế đi cùng với sự phát triển của các doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng trong nền kinh tế và cơ hội việc làm được mở rộng. Do vậy, tỷ lệ dân số có việc làm tương đối ổn định và khá cao so với thế giới và khu vực.

            Năng suất lao động trong những năm gần đây tăng lên nhưng tốc độ tăng chưa cao và lại đang có xu hướng chậm lại. Đây là vấn đề quan trọng cần phải được cải thiện trong những năm tới. Đặc biệt, tốc độ tăng năng suất lao động chậm hơn tốc độ tăng lương danh nghĩa nên chi phí lao động ở Việt Nam đang có xu hướng tăng lên. Điều này có thể ảnh hưởng không tốt tới năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong thời gian tới.

Về nghèo đói và bất bình đẳng

So với các quốc gia khác trên thế giới, tỷ lệ người nghèo tính theo phần trăm tổng dân số đã giảm mạnh trong giai đoạn từ năm 2012 tới nay. Tỷ lệ người nghèo ở Việt Nam trong những năm gần đây là dưới 10% và luôn ở mức thấp hơn so với mức trung bình trên toàn thế giới. Kết quả này rất đáng khích lệ mặc dù Việt Nam liên tục tăng ngưỡng nghèo lên cao hơn trong những năm gần đây. Tỷ lệ nghèo giảm nhanh có phần đóng góp đáng kể của các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thâm dụng lao động trong đó đặc biệt là các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới sáng tạo, khuyến khích khởi nghiệp, phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia.

Bất bình đẳng về thu nhập đã được cải thiện đáng kể trong những năm qua. Số liệu về tỷ lệ tổng thu nhập của 80% dân số có thu nhập thấp hơn so với 20% dân số có thu nhập cao trong hơn 10 năm qua, đặc biệt là từ năm 2010 tới nay, đã tăng lên đáng kể. Tương tự như vậy, tỷ trọng tổng tài sản của 10% dân số giàu nhất trong tổng tài sản quốc gia giảm đi trong khi tỷ trọng này của 40% dân số nghèo nhất có xu hướng tăng lên. Về bất bình đẳng giới, dù còn có sự khác biệt về thu nhập giữa nam giới và nữ giới trong các ngành nhưng khoảng cách này không lớn so với các quốc gia khác và khoảng cách đang giảm dần.

Về phát triển con người

 Tuổi thọ bình quân của Việt Nam cao hơn so với nhiều nước đang phát triển có cùng mức thu nhập và tuổi thọ bình quân tiếp tục tăng. Tỷ lệ tử vong do ô nhiễm không khí thấp hơn nhiều so với toàn thế giới và khu vực. Hệ thống y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng được đầu tư và mở rộng trên toàn quốc. Trình độ học vấn nói chung đã tăng lên nhanh chóng. Hệ thống giáo dục, đào tạo được đổi mới theo hướng nâng cao chất lượng.

Mặc dù đạt được những thành tích nói trên, thực trạng tăng trưởng bao trùm của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Tốc độ tăng GDP đầu người tính theo phương pháp PPP còn chậm và thấp hơn so với mức chung của thế giới và khu vực. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) chiếm hơn 96% tổng số doanh nghiệp nhưng có mức độ tiếp cận nguồn vốn chính thức ở mức trung bình so với các nước trong khu vực. Năng suất lao động gia tăng nhưng tốc độ tăng đang ngày càng chậm lại. Tỷ lệ thanh niên dưới 24 tuổi không có việc làm có xu hướng gia tăng. Bất bình đẳng về thu nhập chưa được cải thiện và bất bình đẳng về sở hữu tài sản còn lớn. Bất bình đẳng về thu nhập theo giới vẫn tồn tại trong các nhóm ngành, trong các khu vực của kinh tế và giữa những người có cùng trình độ chuyên môn.

  1. Đề xuất khung phân tích vai trò của cộng đồng đối với tăng trưởng sáng tạo, bao trùm ở Việt Nam

            Những phân tích ở trên cho thấy, để hướng tới mô hình tăng trưởng dựa trên động lực là đổi mới, sáng tạo, cần phải xây dựng được các cơ chế phù hợp để kiến tạo các điều kiện cần và đủ để thực hiện đổi mới, sáng tạo thành công. Trong số các điều kiện này, hạ tầng công nghệ và năng lực đổi mới, sáng tạo của các cá nhân, tổ chức có vai trò cốt lõi. Do đó, cơ chế thị trường, nhà nước và cộng đồng cần phải được xây dựng để hỗ trợ tốt nhất cho phát triển hạ tầng công nghệ và năng lực đổi mới, sáng tạo của các cá nhân, tổ chức. Để các kết quả đổi mới, sáng tạo đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, thể chế thị trường, nhà nước và cộng đồng cũng cần phải hỗ trợ để có thể hiện thực hóa, thương mại hóa các kết quả đổi mới, sáng tạo. Do đó, cơ chế thị trường, nhà nước và cộng đồng có thể được coi là bệ đỡ cho tăng trưởng sáng tạo. Bên cạnh thị trường và nhà nước, cộng đồng ngày càng có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng sáng tạo.

Đối với tăng trưởng bao trùm, có thể thấy Việt Nam đã đạt được các thành tựu đáng kể nhưng còn tồn tại nhiền hạn chế về bất bình đẳng, việc làm, năng suất lao động, khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ... Thực trạng trên đặt ra những câu hỏi liên quan tới vấn đề cơ chế cần được giải quyết, trong đó cần tập trung củng cố ba trụ cột của tăng trưởng bao trùm (OECD, 2018) gắn với Người dân (trụ cột 1), Doanh nghiệp (trụ cột 2) và Chính phủ (trụ cột 3). Đối với trụ cột 1, cần tập trung cho đầu tư vào con người và các vùng đang bị tụt hậu bằng cách tạo cơ hội bình đẳng cho người dân. Đối với trụ cột 2, cần tăng cường sự năng động của doanh nghiệp và phát triển thị trường lao động có tính “bao trùm”. Trụ cột 3 nhằm hướng đến xây dựng chính phủ hiệu quả và linh hoạt.

           

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 
   

 

 

 

 

 

 

Hình 1. Cơ chế là bệ đỡ cho tăng trưởng sáng tạo và bao trùm trong bối cảnh mới

                                                                                                                        Nguồn: Các tác giả

  1. Kết luận

            Tăng trưởng sáng tạo và bao trùm là hai mục tiêu quan trọng nhằm đạt được phát triển bền vững trong bối cảnh mới hiện nay ở Việt Nam. Với vai trò là bệ đỡ cho tăng trưởng sáng tạo và bao trùm, thị trường, nhà nước và cộng đồng cùng phối hợp để hỗ trợ, khuyến khích, thúc đẩy đầu tư cho hoạt động nghiên cứu phát triển, đổi mới sáng tạo, thực hiện các chính sách phát triển trong đó có các chinh sách xã hội hướng tới đại đa số người dân cùng với nhóm yếm thế trong xã hội. Từ trước tới nay, cơ chế thị trường và cơ chế nhà nước thường được coi trọng để giải bài toán phát triển bền vững. Trên thực tế, cơ chế cộng đồng trong đó bao gồm cộng đồng tự nhiên và cộng đồng nhân tạo luôn có vai trò quan trọng khắc phục các thất bại của thị trường và thất bại của nhà nước.

Trong bối cảnh mới toàn cầu hóa, cạnh tranh, hợp tác và sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, của cách mạng công nghiệp 4.0, vai trò của cơ chế cộng đồng đối với tăng trưởng sáng tạo ngày càng quan trọng bên cạnh cơ chế nhà nước và thị trường. Sự kết nối giữa các cá nhân, tổ chức và tiếp theo là sự kết nối giữa các ngành, lĩnh vực được hỗ trợ bởi sự phát triển nhanh chóng của Internet, công nghệ thông tin, truyền thông là tiền đề quan trọng để cơ chế cộng đồng phát huy vai trò đối với tăng trưởng sáng tạo và bao trùm. Trong bối cảnh mới đó, cơ chế cộng đồng sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn để khắc phục các thất bại của thị trường và thất bại của nhà nước. Chính vì vậy, trong việc xây dựng các chiến lược, mô hình tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới, Việt Nam cần phải hết sức quan tâm tới việc xây dựng và phát huy cơ chế cộng đồng.

 

Tài liệu tham khảo

  1. CIEM (2017), Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế dựa trên sáng tạo và đổi mới công nghệ, Truy cập tại: http://www.ciem.org.vn/Content/files/VNEP/pdf, Truy cập ngày 3/6/2019.
  2. Đặng, K. S (2004), Ba cơ chế: thị trường, nhà nước và cộng đồng - ứng dụng cho Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
  3. Hayami, Y., and Godo, Y. (2005), “Development Economics: From the Poverty to the Wealth of Nations”, Oxford University Press, UK.
  4. OECD (2006), Going for Growth 2006, https://www.oecd.org/social/labour/36054358.pdf, truy cập ngày 1/6/2019.
  5. OECD (2014), Report on the OECD Framework for Inclusive Growth, Truy cập tại: https://www.oecd.org/mcm/IG_MCM_ENG.pdf
  6. OECD (2018), The Framework for Policy Action on Inclusive Growth, Truy cập tại: https://www.oecd.org/mcm/documents/C-MIN-2018-5-EN.pdf.
  7. Schumpeter, J (1934), The Theory of Economic Development, Cambridge, MA: The MIT Press.
  8. WB (2019), A Review of Science, Technology and Innovation in Vietnam, Truy cập tại: http://www.worldbank.org/en/country/vietnam/publication/a-review-of-science-technology-and-innovation-in-vietnam, Truy cập ngày 2/6/2019.
  9. WIPO (2018), Global Innovation Index 2018: Energizing the World with Innovation, Truy cập tại: https://www.wipo.int/edocs/pubdocs/en/wipo_pub_gii_2018.pdf, Truy cập ngày 2/5/2019.

 

 

 

 

 

 

 

[1] Trường Đại học Ngoại thương, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

[2] Trường Đại học Ngoại thương, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

[3] Trường Đại học Ngoại thương, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

Các bài khác...

hacklink al hack forum organik hit kayseri escort sisli eskortbeylikdüzü escortdeneme bonusu veren sitelerkedi sahiplendirmemakrobet girişperabet girişdeneme bonusu veren sitelercasinolevant girişmarsbahis girişnorabahis girişStarzbetcratosroyalbetCratosroyalbet girişPalacebetbetwildPalacebet girişBetwild girişhızlıbahismaxwinsuperbetdamabetsuperbet girişDamabet girişgamdom girişGrandpashabetGrandpashabet girişPornokolaybet girişdeneme bonusu veren sitelerdeneme bonusu veren sitelerdeneme bonusu veren sitelerbahis sitelerijojobetkralbet girişgrandpashabetonwinpincoonwinonwindeneme bonusu veren sitelerdizipaltwitter video downloaderSakarya escortSakarya escortonwinbahis sitelerizenci pornosoundcloudaudvevobahismostbetcasinolevant girişramadabetanime izlevozol puffbahis siteleri메이저놀이터 먹튀검증 먹튀위크Çorlu Escortiqos 3 duo fiyatcasino şans먹튀검증 사이트marsbahis girişjojobetjojobetcasinolevantsolana sniper botşanscasino girişcasino şans girişşans casino kayıtjojobetonwinSnaptikz libraryfixbet girişselçuk sportsselçuksportsfake audemars piguetonwinbycasinoligobetverabetroyalbetpashagamingizmir escortdeneme bonusu veren siteleraviator oyna demozbahise.orgzbahisegirisyap.combetturkeys.orgpragmaticplayslotoyna.orgsweetbonanzaoynaa.orggatesofolympusoynaa.orgaviatorucakoyna.comsugarrrush.netsweetsbonanza.netsweetbonanzas.orggatessofolympus.comzeussvshades.combigbassbonanzas.orggatesofolympuss.orgdeneme bonusu veren sitelerdeneme bonusu veren sitelerdeneme bonusu veren siteler먹튀검증 사이트 먹튀위크먹튀위크verabetdeneme bonusu veren sitelerkralbet girişreceive sms onlinekralbetfwefwfHoliganbetbetturkey girişligobet girişkralbetesenyurt escortdeneme bonusuPusulabetbağcılar beyaz eşya servisitambetcasinopopmarsbahisbetparkcasibomcialis fiyatcanlı casinopump fun trending botbetciomostbet-pk-now.comsahabet girişbetturkeyligobet girişcanlı casinoCeltabetkadın parfümjustintvtaraftarium24selçuksportstaraftarium24PusulabetcasibomborsaHalka arz danışmanlığıaresbetmap scores by grade level 2024area code 213mysainsburysmysainsburysextrabetimajbetRestbetfilmganituzla escortbettilt1win girişbetrupimodel twitter girişerotic massage antalyacasibomVazolfixbetfixbetcasibomsahabetmostbet-pk-now.compusulabettipobetcasibom829casibom 829megabahismeritkingzbahispusulabetMariobet girişmersobahisdeneme bonusuperabet girişhttps://guncellenecektirr.compusulabetkralbet güncel girişeskort siteleripubg mobile ucmobile legends elmaspusulabet girişvozol 40000polietilen şişeonwin girişiqos 3 duojojobetbetturkey girişbetturkey girişcasibomdeneme bonusucasibom 839 compusulabetcasibom girişdeobet giriş, istekbet giriş, exonbet giriş, spinco giriş, betwoon giriş, grandpashabet giriş, baywin giriş, bayspin giriş, trslot giriş, betturkey giriş, paribahis giriş, rokubet giriş, galabet giriş, betorspin giriş, kralbet giriş, primebahis giriş, baywin giriş, bayspin giriş, zlot giriş, slotin giriş, sweetbonanza oyna, en yüksek rtp oranlı siteler, bankobet giriş, starzbet giriş, betgar giriş, onwin giriş, levantcasino giriş, restbet giriş, egt digital oyna, tarafbet giriş, betewin giriş, mbahis forumbuca escortçeşme escortmeritking girişdeneme bonusu veren sitelerkralbet girişgorabetbetrediimajbetkralbetcasibomanal sexpubg mobile ucbetgit giriş adresicasibomBerlinbet güncel girişdeneme bonusu veren sitelerslot siteleriPorn FREEjojobetpadişahbetgüncel girişmakrobetsuperbetsahabetphantomjojobet güncelbetcioPadişahbet Girişdeneme bonusupadişahbetcasibomgrandpashabetcasibomtipobetcasibombankobet girişextrabet girişinterbahisporn sex analsmok nord 5holiganbetcasibomanal pornplastik şişepet şişemaxwin girişgrandpashabetultrabetjojobetkıbrıs zoom casinokıbrıs zoomDeneme bonusu veren sitelertipobet girişgrandpashabetmilanobetdinamobetbetebetbetebetcasibom girişgaribanbet girişbetciobetcio girişbetciojojobetjojobetroyalbetkingbettinggame 7marsbahissavoybettingbetvolemilanobetrestbetgoldenbahisGanobettempobetamgbahismavibettipobetGanobetbetistfilmozillastarzbet twitterjojobet girişmarsbahispadişahbetholiganbetwww.giftcardmall.com/mygiftwww.giftcardmall.com/mygiftkingroyalmatadorbetmeritkingbetvolecanonicaljojobet7slotsbetvolebetvolebetvolebetvolebetvolenowinnowinholiganbetvadi casinogiftcardmall/mygiftgrandpashabetholiganbetholiganbetcasibomholiganbetgrandpashabetjojobetbettiltbettiltsahabet giriş