Nguyễn Khoa Đức Anh
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam
Đỗ Hoài Linh
Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, Việt Nam
Khúc Thế Anh
Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, Việt Nam
Ngày nhận: 13/10/2025; Ngày hoàn thành biên tập: 12/12/2025; Ngày duyệt đăng: 16/12/2025
DOI: https://doi.org/10.38203/jiem.vi.102025.1388
Tóm tắt: Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của áp lực, cơ hội, biện minh và năng lực đến ý định thực hiện hành vi gian lận nghề nghiệp của người lao động trong các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Dữ liệu từ 1.060 nhân viên tại các ngân hàng thương mại Việt Nam được phân tích thông qua mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM). Kết quả cho thấy, áp lực và biện minh có ý nghĩa thống kê, trong khi cơ hội và năng lực không có ảnh hưởng. Nguyên nhân của vấn đề xuất phát từ áp lực tài chính và phi tài chính mà người lao động gặp phải. Họ thường biện minh cho ý định hành vi của mình là bảo vệ tổ chức cũng như hỗ trợ cho khách hàng. Dựa vào kết quả nghiên cứu, một số hàm ý chính sách được đưa ra nhằm giảm ý định thực hiện hành vi gian lận nghề nghiệp cho nhân viên ngân hàng gồm tăng khả năng giám sát, đồng thời tạo điều kiện cho người lao động thực hiện các mục tiêu.
Từ khóa: Gian lận nghề nghiệp, Ngân hàng, áp lực, Cơ hội, Biện minh, Năng lực
FACTORS INFLUENCING THE INTENTION TO COMMIT OCCUPATIONAL FRAUD IN VIETNAMESE COMMERCIAL BANKS
Abstract: This study examines the effects of pressure, opportunity, rationalization and capability on employees’ intention to engage in occupational fraud in Vietnamese commercial banks. Using 1,060 survey responses, the study employs structural equation modeling (SEM) to analyze the data. The findings show that pressure and rationalization have statistically significant, whereas opportunity and capability have no significant effect. The underlying problem stems from the financial and non-financial pressures faced by staff. They often rationalize their intention to engage in such behavior as protecting the organization and supporting customers. Based on the empirical results, several policy implications are proposed to reduce bank employees’ intention to commit occupational fraud, including strengthening monitoring systems while simultaneously creating conditions that enable employees to achieve their performance goals without resorting to unethical conduct.
Keywords: Occupational Fraud, Commercial Banks, Pressure, Opportunity, Rationalization, Capability