Sidebar

Magazine menu

07
T3, 05

Tạp chí KTĐN số 117

 

ĐỔI MỚI QUẢN LÝ ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ THẠC SĨ TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

                        Nguyễn Văn Cảnh[1]

Nguyễn Thị Sofia[2]

Tóm tắt

Bài viết này phân tích, đánh giá công tácquản lý đào tạo trình độ thạc sĩcủa Trường Đại học Ngoại thương (ĐHNT) trong điều kiện tự chủ và hội nhập quốc tế, được xem xét trên các mặt: 1). Đổi mới quản lý nội dung, chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ, 2). Tiếp tục đổi mới chuẩn đầu ra, tiêu chuẩn chất lượng, thực hiện kiểm định chất lượng và đảm bảo chất lượng chương trình đào tạo, 3). Đổi mới hoạt động quản lý người học theo hướng tăng cường tính tự chịu trách nhiệm của học viên kết hợp với việc giám sát đồng bộ, 4). Gắn kết hoạt động đào tạo và hoạt động nghiên cứu khoa học, 5). Các giải pháp về phối, kết hợp với công giới, 6). Đề xuất tăng quyền tự chủ toàn diện, 7). Các giải pháp tiếp tục đổi mới phát triển nguồn lực, phát triển đội ngũ giảng viên thỉnh giảng. Từ đó, đề xuất kiến nghị định huớng, giải pháp tiếp tục đổi mới quản lý đào tạo trình độ thạc sĩ củaTrường ĐHNT trong điều kiện tự chủ và hội nhập quốc tế trên các mặt đó.

Từ khóa: Đào tạo trình độ thạc sĩ, quản lý đào tạo trình độ thạc sĩ, đổi mới quản lý đào tạo trình độ thạc sĩ, chất lượng đào trình độ thạc sĩ, tự chủ, hội nhập quốc tế.

Abstract

The paper focuses on the analysis and assessment of the management of Master-level education of Foreign Trade University in the context of autonomy and international integration from the perspectives as follows: 1. The renewal of the management of the content and the structure of Master programs, 2. The continuation of the renewal of expected learning outcomes, quality standards, the implementation of quality accreditation and the assurance of programs’ quality, 3. The renewal of the student management in order to raise their self-taking responsibilities in accordance to the consistent supervision, 4. The connection of education actitvities with research ones,5. The solutions for the cooperation with organizations and enterprises., 6. The recommendations of raising the comprehensive autonomous rights, and continuing the renewal of the development of human resource and visiting lecturers. From all of these, the orientations and solutions are propose for the continuation of the renewal of Master-level education of Foreign Trade University in the situation of autonomy and international integration.

Keywords: Master-level education, Master-level education management, renewal of Master-level education management, Master pogram quality, autonomy, and international integration.

1. Đặt vấn đề

Hoạt động đào tạo đại học và sau đại học là sứ mạng, là nhiệm vụ trọng yếu của các trường đại học. Kết quả và chất lượng đào tạo cao hay thấp là một tiêu chí đánh giá vị thế và uy tín của nhà trường. Vì vậy, việc không ngừng phát triển đào tạo nói chung, đào tạo trình độ thạc sĩ nói riêng là mục tiêu mà các trường đại học hướng tới. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, vấn đề hội nhập về giáo dục đào tạo ngày càng sâu rộng, trước những thách thức của môi trường giáo dục luôn thay đổi, việc đổi mới quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo trình độ thạc sĩ của các trường đại học luôn trong điều kiện tự chủ và hội nhập là vấn đề được cơ sở đào tạo và của toàn xã hội quan tâm.

Trên thế giới “tự chủ đại học” gắn liền với sự thay đổi mối quan hệ giữa nhà nước và trường đại học theo xu hướng phát huy truyền thống đại học là tự do học thuật và mở rộng tự chủ tổ chức, tự chủ tài chính và tự chủ nhân sự. Ở Việt Nam, đến năm 2012, các chính sách giáo dục chưa sử dụng từ ngữ “tự chủ đại học” mà dùng nhiều từ ngữ như “tự chủ, quyền tự chủ, nguyên tắc tự chủ, cơ chế tự chủ, chế độ tự chủ và luôn gắn tự chủ với “tự chịu trách nhiệm” và “theo quy định pháp luật”. Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu để đổi mới quản lý hoạt động đào tạo sau đại học, nâng cao chất lượng đào tạo ngang tầm yêu cầu mới của phát triển bền vững đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế.

Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Để thực hiện mục tiêu này đòi hỏi các trường đại học Việt Nam, trong đó có Trường Đại học Ngoại thương phải thực sự có bước đột phá tạo ra được những chuyển biến rõ rệt trong nhận thức cũng như trong thực tiễn đào tạo.

2. Một số kết quả đạt được trong đào tạo trình độ thạc sĩ

Trường ĐHNT đã trải qua 2 giai đoạn: Giai đoạn đầu (từ 1960 đến 1993), Trường chỉ thực hiện các chương trình đào tạo trình độ đại học (trước đây gọi là bậc đại học). Giai đoạn sau (từ 1993 đến nay), Trường bắt đầu thực hiện đào tạo sau đại học (nay được gọi là đào tạo trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ), từmột chuyên ngành duy nhất là Kinh tế Thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế (nay là ngành Kinh tế quốc tế) theo Quyết định số 1955/QĐ-SĐH ngày 21/09/1992 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, đến nay Trường đã và đang đào tạo 8 ngành, chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ, đó là: (1) Kinh tế quốc tế giảng dạy bằng tiếng Việt, (2) Kinh tế quốc tế giảng dạy bằng tiếng Anh, (3) Quản trị kinh doanh, (4) Điều hành cao cấp, (5) Kinh doanh thương mại, (6) Tài chính - Ngân hàng, (7) Chính sách và Luật thương mại quốc tế, (8) Luật Kinh tế. Trải qua 25 năm đào tạo trình độ thạc sĩ, trường Đại học Ngoại thương đạt được một số kết quả sau:

Thứ nhất, xuất phát từ việc coi đào tạo trình độ thạc sĩ bậc đào tạo chuyên sâu, dựa trên nền tảng đào tạo ở trình độ đại học và có mối liên hệ thống nhất với đào tạo đại học, các chương trình đào tạo thạc sĩluôn được Nhà trường đặc biệt quan tâm đổi mới theo hướng cập nhật kiến thức chuyên ngành, tăng cường kiến thức liên ngành nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Các chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ được xây dựng trên tinh thần quán triệt quan điểm đó và có tham khảo các chương trình đào tạo thạc sĩ của các trường đại học trong và ngoài nước. Qua thực tế các khóa đào tạo, các chương trình này đã đáp ứng được nhu cầu của người học, nhu cầu của các cơ quan sử dụng người học.

Thứ hai, đội ngũ cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý đào tạo sau đại học không ngừng được củng cố và ngày càng lớn mạnh. Chính sách thu hút sự tham gia đóng góp của các nhà khoa học trong và ngoài trường được xuyên suốt trong mọi hoạt động của Nhà trường. Trong 25 năm qua, hơn 150 nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao, có uy tín và tâm huyết với nghề đã tham gia giảng dạy, xây dựng chương trình, hướng dẫn, đánh giá luận văn. Để phát huy khả năng đóng góp của đội ngũ các nhà khoa học cho trình độ thạc sĩ, Nhà trường đã luôn cố gắng đảm bảo điều kiện làm việc thuận lợi, chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho đội ngũ cán bộ khoa học. Cùng với việc xây dựng và phát triển đội ngũ các nhà khoa học, Nhà trường cũng chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo trình độ thạc sĩ. Từ chỗ chỉ có 02 người khi mới thành lập, đến nay, Khoa Sau đại học đã có một đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, gồm 10 thành viên trong đó có 01 phó giáo sư, 02 tiến sĩ, 07 thạc sĩ.

Thứ ba, sau 25 năm đào tạo sau đại học, qui mô đào tạo trình độ thạc sĩ và tiến sĩ của Trường không ngừng phát triển, Nhà trường đã và đang đào tạo các học viên trong và ngoài nước từ Hàn Quốc, Cộng hoà DCND Lào, Vương quốc Căm-pu-chia, Trung Quốc, Mông Cổ, ... vớihơn 5.000 học viên cao học của 8 chuyên ngành đào tạo là lực lượng nòng cốt trong lĩnh vực kinh tế quốc tế, quản trị kinh doanh, kinh doanh thương mại, tài chính - ngân hàng, pháp luật và ngoại ngữ của đất nước. Các thạc sĩ được đào tạo tại Trường Đại học Ngoại thương luôn được xã hội đánh giá cao, họ đã luôn xứng đáng với truyền thống của Trường và khi trở về cơ quan đều đã phát huy được vai trò của mình trong công tác, vận dụng được các kiến thức đã học ở Trường để giúp cơ quan, doanh nghiệp hoạch định chính sách, chiến lược ở tầm vĩ mô và vi mô, giải quyết tốt các vấn đề thực tiễn đặt ra.

Thứ tư, hợp tác quốc tế về đào tạo sau đại học của Nhà trường trong những năm qua cũng có bước phát triển. Với vị thế là một trong những trường đại học hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và quản trị kinh doanh quốc tế, Trường Đại học Ngoại thương đã trở thành đối tác của nhiều trường đại học nước ngoài, nhiều tổ chức quốc tế trong nhiều dự án hợp tác đào tạo và nghiên cứu sau đại học. Chương trình hợp tác đào tạo sau đại học đầu tiên tại Trường Đại học Ngoại thương đánh dấu một bước đi quan trọng trong lĩnh vực hợp tác đào tạo là chương trình hợp tác đào tạo trình độ thạc sĩ chuyên ngành Luật Kinh doanh quốc tế với Đại học Tours được Nhà trường giao cho Khoa Sau đại học tổ chức thực hiện từ năm 2001. Tiếp nối thành công đã đạt được trong việc tổ chức chương trình liên kết đào tạo đầu tiên này, Trường Đại học Ngoại thương đã giao nhiệm vụ cho Khoa Sau đại học triển khai một số chương trình khác như: chương trình hợp tác đào tạo cao học Quản trị dự án với Đại học Nantes (Cộng hòa Pháp), chương trình đào tạo thạc sĩ Nghiên cứu quan hệ kinh tế Á – Âu của Trường Đại học Rennes 2, chương trình đào tạo thạc sĩ chuyên ngành Chính sách và Luật thương mại quốc tế của Viện Thương mại thế giới (WTI) thuộc Trường Đại học Tổng hợp Bern, Thụy Sĩ và cũng gặt hái được những thành công nhất định nhờ vào chất lượng đào tạo, trình độ của học viên tốt nghiệp và công tác tổ chức thực hiện chương trình. Thông qua các dự án hợp tác này, đội ngũ giảng viên của Nhà trường có điều kiện trao đổi về chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy với các giảng viên của các trường đại học lớn trên thế giới, từng bước nâng cao chất lượng đào tạo trình độ thạc sĩ của Trường lên ngang tầm với chất lượng đào tạo của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Thứ năm, Nhà trường luôn quan tâm đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và học tập sau đại học. Các học viên cao học được dành riêng 15 phòng học có điều hòa nhiệt độ, máy vi tính, máy chiếu, 01 thư viện và phòng đọc với hệ thống máy tính nối mạng, 1 phòng bảo vệ luận văn thạc sĩ.

Phát huy những kết quả đã đạt được, trong thời gian tới, Trường Đại học Ngoại thương sẽ tiếp tục đổi mới hơn nữa công tác đào tạo trình độ thạc sĩ nhằm nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu hội nhập. Nhiệm vụ đặt ra là: rà soát và hoàn thiện các chương trình đào tạo đã có; xây dựng các chương trình đào tạo cho các ngành mới theo hướng liên thông và hội nhập; đổi mới căn bản phương pháp giảng dạy, chú trọng phương pháp nêu vấn đề, lấy người học làm trung tâm, tăng cường sử dụng trang thiết bị dạy học; tăng cường công tác quản lý quá trình đào tạo sau đại học.

Đạt được các kết quả trên là nhờ các nguyên nhân sau: (1) Nhờ quyết tâm và tầm nhìn của lãnh đạo Trường qua các thế hệ; (2) Nhờ sự đồng lòng của tập thể cán bộ, giảng viên Nhà trường đã tích cực thực hiện chủ trương đào tạo trình độ mọi mặt cho đội ngũ viên chức,đến nay đội ngũ giảng viên đã có biến đổi rõ rệt về số lượng và chất lượng, số lượng giáo viên có học vị tiến sĩ đã liên tục tăng qua các năm, đến nay trường có 1 giáo sư, 40 phó giáo sư và 94 tiến sĩ. (3) Nhờ sự hợp tác có hiệu quả với các đối tác, các nhà khoa học uy tín ngoài trường.

3. Một số hạn chế và nguyên nhân

Còn một số hạn chế nhất định về quản lý đào tạo và chất lượng đào tạo trình độ thạc sĩ của Trường Đại học Ngoại thương trong thời gian qua. Một số hạn chế và nguyên nhân của hạn chế về quản lý đào tạo trình độ thạc sĩ như:

(1) Hình thức tổ chức đào tạo chủ yếu là học không tập trung (các buổi tối trong tuần hoặc các ngày cuối tuần, không có sự quản lý chặt chẽ cả tự quản và bị quản) do các học viên là những người đang đi làm việc tại các cơ quan, tổ chức không sắp xếp được thời gian học ban ngày vì vậy việc tổ chức đào tạo ban ngày chỉ triển khai được một vài lớp của các ngành QTKD, TC-NH, Luật Kinh tế, còn một số ngành khác do không đủ số lượng người học nên không đủ điều kiện tổ chức;

(2) Nhà trường chưa kiểm định và đánh giá các chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ do việc triển khai kiểm định chương trình cần phải đảm bảo các điều kiện cần thiết trước khi đưa ra kiểm định. Vì vậy, Nhà trường đang tổ chức và triển khai từng bước để tiến hành kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ, các bước đã và đang triển khai như kiểm định chất lượng giáo dục, rà soát chương trình đào tạo,…;

(3) Tổ chức quản lý quá trình đào tạo chưa được thường xuyên đổi mới, phân quyền trong tổ chức quản lý giữa trường và các đơn vị chưa thực sự thường xuyên được hoàn thiện, người học chưa gắn với bộ môn, chưa kiểm soát đào tạo theo quá trình... Do việc tổ chức quản lý đào tạo được áp dụng theo quy định đào tạo trình độ thạc sĩ của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của Nhà trường, trong khi nội dung quy chế đào tạo (quy định về chức năng, nhiệm vụ, cách thức tổ chức quản lý,…) và được áp dụng trong thời gian dài;

(4) Trong tuyển sinh, chưa chú trọng đúng mức khâu chuẩn bị của thí sinh, các chương trình tổ chức đào tạo một số học phần tại các địa phương còn hạn chế. Nhà trường tổ chức các lớp học ôn thì, hướng dẫn ôn tập để thí sinh chuẩn bị, nhưng do thời gian tuyển sinh ngắn nên việc tổ chức các lớp ôn tập thường bị hạn chế về thời gian. Đối với các học phần tại các địa phương do nhiều vướng mắc về quy chế đào tạo như phải thực hiện các thủ tục xin phép nên việc triển khai còn nhiều hạn chế;

(5) Đội ngũ giảng viên, người hướng dẫn khoa học một số ngành chưa đủ và chưa thực sự ổn định do số lượng người học một số ngành tăng, trong khi các giảng viên đang trong thời gian làm nghiên cứu sinh hoặc một số giảng viên là tiến sĩ chuyển công tác. Do nhu cầu đào tạo của xã hội ở một số ngành tăng cao hàng năm, trong khi đội ngũ nhà khoa học cơ hữu tăng lên nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu mới;

(6) Quan hệ với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu về đào tạo thạc sĩ và sử dụng lao động có trình độ thạc sĩ chưa thực sự hiệu quả. Việc “học” cần đi đổi với “hành” và việc tổ chức đào tạo cho người học cần gắn với thực tiễn để gắn kết lý luận với thực tiễn. Vì vậy, việc tham gia của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp là thực sự cần thiết từ yêu cầu của nội dung chương trình đến nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, một số cơ quan sử dụng lao động do một số hạn chế nhất định đã không tham gia vào việc phối hợp đào tạo với các cơ sở đào tạo;

(7) Chưa có bộ giáo trình chuẩn cho từng chương trình đào tạo. Do các chương trình thường xuyên được cập nhật, một số học phần thường xuyên được thay đổi, các nhà khoa học cũng chưa thực sự chú trọng trong việc biên soạn giáo trình, sách chuyên khảo phục vụ cho đào tạo trình độ thạc sĩ;

 (8) Thư viện và học liệu chưa đảm bảo ở mức cao mặc dù được sự quan tâm của Nhà trường trong việc trang thiết bị học liệc cho Thư viện, nhưng do hạn chế về kinh phí hoặc cung cấp thông tin về học liệu từ nguồn trong và ngoài nước nên thực tế số học liệu hiện có vẫn chưa đủ để người học tham khảo;

 (9) Cơ sở vật chất chưa thực sự đảm bảo cho quá trình đào tạo. Nhà trường luôn quan tâm đến cơ sở vật chất phục vụ cho đào tạo trình độ thạc sĩ, nhưng do còn hạn chế về tài chính nên một số phòng học chưa được trang bị đủ thiết bị hiện đại cho các phòng học.

4. Đề xuất một số định hướng và giải pháp đổi mới quản lý đào tạo trình độ thạc sĩ trong điều kiện tự chủ và hội nhập nhằm nâng cao chất đào tạo

Đào tạo trình độ thạc sĩ ở trường ĐHNT trong 25 năm qua đã khẳng định vai trò và vị thế xứng đáng trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, Nhà trường vẫn cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo trình độ thạc sĩ. Để chất lượng đào tạo trình độ thạc sĩ ngày càng nâng cao, ngang tầm khu vực và thế giới, giải quyết tốt mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng và mở rộng qui mô đào tạo, các đề xuất dưới đây về đổi mới quản lý đào tạo trình độ thạc sĩ không nằm ngoài mục tiêu trên.

4.1. Định hướng

Thứ nhất, định hướng đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo trình độ thạc sĩ trong điều kiện tự chủ và hội nhập quốc tế

- Đổi mới đào tạo trình độ thạc sĩ cần phù hợp với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, định hướng này liên quan đến chất lượng đào tạo tiệm cận chất lượng đào tạo quốc tế, đòi hỏi nội dung chương trình đào tạo phải thường xuyên cập nhật, tham khảo các chương trình của các trường đại học danh tiếng trong nước và trên thế giới.

- Đổi mới đào tạo trình độ thạc sĩ cần khai thác tối đa các cơ hội do việc trao quyền tự chủ mang lại, phù hợp với nhu cầu xã hội trên cơ sở huy động, kết hợp các chủ thể có liên quan.

Thứ hai, đổi mới là quá trình, đòi hỏi thường xuyên hoàn thiện, đòi hỏi kiểm định chất lượng theo tiêu chuẩn.

Chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ cần được thường xuyên hoàn thiện trên cơ sở kịp thời phát hiện những bất cập để có điều chỉnh kịp thời. Chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ liên quan đến chiến lược sản phẩm, gắn nhu cầu thị trường (nhu cầu xã hội), do nhu cầu xã hội thường xuyên thay đổi, vì vậy, sản phẩm đào tạo cũng cần có sự thay đổi để đáp ứng nhu cầu xã hội, để đạt hiệu quả hơn.

Chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ cần được kiểm định, tuyên bố với xã hội về chất lượng đào tạo của một chương trình theo một chuẩn nào đó và cũng là sự công nhận của xã hội về chất lượng đào tạo.

4.2. Giải pháp

Thứ nhất, đổi mới quản lý nội dung chương trình đào tạo, phát triển chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ

Mục tiêu của việc học thạc sĩ (master) hiểu một cách đơn giản là để người học nắm vững được (lý tưởng là đến mức tinh thông, như nghĩa của chữ “master”) các tri thức của một ngành đào tạo. Những người có trình độ thạc sĩ là những người có trình độ chuyên ngành vững chắc, sau khi được học nâng cao và cùng với kinh nghiệm làm việc đã tích lũy được, họ sẽ có thêm kiến thức liên ngành và năng lực thực hiện công tác chuyên môn cũng như nghiên cứu khoa học trong ngành được đào tạo.

Để thiết kế một chương trình đào tạo phù hợp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo,Nhà trường cần huy động các nhà khoa học (trong và ngoài trường) có kinh nghiệm, am hiểu những nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng chương trình như: mục tiêu của chương trình, chuẩn đầu ra, cấu trúc chương trình, qui trình làm chương trình, tham khảo chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước và phải căn cứ vào các văn bản pháp luật hiện hành. Chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ cần thiết kế nội dung hợp lý cho từng ngành, cung cấp các học phần phù hợp với ngành đào tạo (không phải theo khả năng người dạy), đáp ứng nhu cầu người học, giúp học viên tiếp thu tri thức một cách hệ thống, chuyên sâu, có khả năng áp dụng hiệu quả tri thức đã tiếp thu vào trong thực tiễn.

Việc đổi mới nội dung, chương trình đào tạo như trên, Nhà trường cần rà soát, cập nhật thường xuyên các học phần trong chương trình đào tạo, để từ đó có sự điều chỉnh, bổ sung kịp thời các học phần, đáp ứng những đòi hỏi do nhu cầu thực tiễn đặt ra. Đồng thời, Nhà trường cần có các giáo trình, sách chuyên khảo dành riêng cho đào tạo trình độ thạc sĩ đối với một số môn học chủ chốt của các ngành đào tạo. Đây là một vấn đề then chốt và cần khắc phục vì hiện nay học viên cao học chưa có giáo trình các học phần của cả 8chương trình đào tạo nói trên (riêng môn Triết học đã có giáo trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo áp dụng chung cho các chương trình đào tạo). Có giáo trình và sách tham khảo sẽ quyết định cách giảng bài của giảng viên và khả năng tự học của học viên. Mặt khác, hàng năm Nhà trường cần khảo sát lấy ý kiến của người học, của các cơ quan sử dụng học viên, các nhà quản lý, các nhà khoa học về chương trình đào tạo để có thêm nguồn thông tin về tính ý nghĩa, tính thực tế của chương trình đào tạo từ người học và nhà sử dụng “sản phẩm đào tạo”.

Bên cạnh đó, cần nghiên cứu phát triển thêm một số ngành đào tạo mới như: Quản lý kinh tế, Kế toán,…phù hợp với khả năng của Nhà trường, đáp ứng nhu cầu đào tạo trình độ thạc sĩ của xã hội và tạo ra lợi thế “cạnh tranh” mới, vị thế của Nhà trường.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới chuẩn đầu ra, tiêu chuẩn chất lượng, thực hiện kiểm định chất lượng và đảm bảo chất lượng chương trình đào tạo

Năm 2017, Trường Đại học Ngoại thương được Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục trao Giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giai đoạn 2011-2016, đánh giá cao ở cả 10 tiêu chuẩn mà Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Đó là sứ mạng và mục tiêu của trường đại học; tổ chức và quản lý; chương trình giáo dục; hoạt động đào tạo; đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên và nhân viên; người học; nghiên cứu khoa học, ứng dụng, phát triển và chuyển giao công nghệ; hoạt động hợp tác quốc tế; thư viện, trang thiết bị học tập và cơ sở vật chất khác; tài chính và quản lý tài chính. Tuy nhiên, đó mới là kiểm định và đánh giá chất lượng trường đại học, việc kiểm định chương trình đào tạo đang được Nhà trường quan tâm và triển khai. Dự kiến đánh giá mời các tổ chức kiểm định quốc tế đánh giá và kiểm định chất lượng chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ trong năm 2020.

Đánh giá, kiểm định và công bố chất lượng đào tạo là sự công nhận của xã hội về một chất lượng đào tạo, là sự tuyên bố với xã hội về chất lượng đào tạo của một chương trình theo một chuẩn nào đó. Mỗi người học cần biết đầy đủ thông tin về năng lực, chất lượng đào tạo của mỗi trường, chuyên ngành, đội ngũ nhân sự,… mà họ sẽ đăng ký và tham gia học. Kiểm định chất lượng là công cụ hữu hiệu để kiểm soát chất lượng và nâng cao tính minh bạch của một chương trình đào tạo. Ngoài ra, kiểm định chất lượng còncó tác dụng tăng uy tín cho các trường, giúp các nhà quản lý, các trường đại học tự xem xét toàn bộ hoạt động đào tạo của mình một cách có hệ thống, từ đó điều chỉnh theo một chuẩn mực nhất định để ngày càng đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo.

Ngoài hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ (Internal Quality Assurance - IQA). Trường Đại học Ngoại thương cần mời các tổ chức kiểm định độc lập và các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác thực hiện đảm bảo chất lượng bên ngoài (External Quality Assurance - EQA). Việc kiểm định chất lượng không tạo ra ngay chất lượng đào tạo mà nó là tấm gương phản ảnh chất lượng đào tạo, giúp cho Nhà trường nhìn nhận lại chất lượng hiện tại của mình và tuyên bố với “khách hàng” của mình về hiện trạng chất lượng chương trình đào tạo, đồng thời giúp người tham gia đào tạo nhận thức được những tiêu chuẩn cần thiết, biết được điểm mạnh, điểm yếu của chương trình đào tạo để hoàn thiện, nâng cao chất lượng đào tạo.

Thứ ba, đổi mới hoạt động quản lý người học theo hướng tăng cường tính tự chịu trách nhiệm của học viên kết hợp với việcgiám sát đồng bộ

Hoạt động học của học viên cao học tại cơ sở đào tạo nhằm lĩnh hội tri thức mới, chuyên sâu; là hoạt động có ý thức của người học nhằm thay đổi bản thân, hướng vào việc hình thành, phát triển toàn diện nhân cách cá nhân. Có thể hiểu quản lý hoạt động của học viên thực chất là quản lý việc thực hiện nhiệm vụ của học viên trong quá trình đào tạo, bao gồm: theo dõi, đánh giá kết quả học tập, nghiên cứu, thúc đẩy tạo điều kiện để học viên nâng cao kiến thức, hoàn thiện bản thân. Để quản lý hoạt động học của học viên cao học theo hướng tăng cường tính tự chịu trách nhiệm của học viên kết hợp với việc giám sát đồng bộ được hiệu quả, Khoa Sau đại học cần: Rà soát quy định đào tạo trình độ thạc sĩ để điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng người học; Phổ biến, hướng dẫn cho học viên nắm vững qui định của Nhà trường, của Bộ Giáo dục và Đào tạo liên quan đến đào tạo trình độ thạc sĩ, cũng như kế hoạch học tập của toàn khóa học, từng học kỳ để học viên chủ động về thời gian tham gia khóa học; Lãnh đạo Khoa Sau đại học thường xuyên có buổi họp định kỳ với các lớp học để nắm bắt tình hình thực hiện nhiệm vụ của học viên đồng thời tiếp thu thông tin phản hồi từ người học, từ đó kịp thời có những biện pháp điều chỉnh, bổ sung phù hợp. Trao đổi trực tiếp giữa Khoa Sau đại học với giảng viên giảng dạy để quản lý, theo dõi giờ lên lớp, tình hình học tập và tinh thần, thái độ của học viên.

Thứ tư, gắn kết hoạt động đào tạo và hoạt động nghiên cứu khoa học

Hoạt động đào tạo và hoạt động nghiên cứu là hai nhiệm vụ chủ yếu của mỗi cơ sở đào tạo. Nghiên cứu khoa học sẽ tận dụng được tiềm năng chất xám của đội ngũ giảng viên có trình độ, có kinh nghiệm cũng như của những học viên có đam mê nghiên cứu, có những ý tưởng sáng tạo. Đồng thời, giúp cho học viên tìm ra được những kiến thức mới, những phương pháp mới, để bổ sung và nâng cao trình độ bản thân cũng như phát huy khả năng nghiên cứu khoa học. Để gắn kết hoạt động đào tạo và hoạt động nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Ngoại thương cần:

- Kết hợp với các giảng viên lập nên những nhóm học viên cao học tham gia vào các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, cấp Bộ. Học viên sẽ được làm quen với công việc nghiên cứu ngay trong khi nghiên cứu các môn học trong chương trình đào tạo của mình, những kiến thức thu được từ các môn học sẽ được áp dụng thực tế. Học đi đôi với hành sẽ làm cho việc học trở nên bớt nhàm chán, căng thẳng.

- Thường xuyên tổ chức hội thảo khoa học nhằm tạo cơ hội cho các học viên được tham gia nghiên cứu. Những hội thảo này có thể đi sâu vào việc tư vấn viết từng chương trong luận văn, tư vấn tìm tài liệu, tư vấn trình bày theo đúng văn phong khoa học. Tại những cuộc hội thảo như thế, các cán bộ hướng dẫn khoa học sẽ có cơ hội trình bày những kinh nghiệm của mình tới toàn thể các học viên mà không dành riêng cho học viên mà họ hướng dẫn.

- Tăng cường đầu tư kinh phí, quản lí về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên nhằm đảm bảo các sản phẩm nghiên cứu đạt chất lượng cao cũng là một nội dung quan trọng. Sẽ là thiếu thực tế nếu Nhà trường chỉ động viên các giảng viên, học viên về mặt tinh thần mà không có chế độ đãi ngộ, trả công xứng đáng cho những sản phẩm nghiên cứu của họ. Khó khăn đặt ra với công tác này là kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học ở các trường đại học rất ít. Trong khi đó, lao động chất xám khó có thể định mức được. Vì vậy, trước hết cần khuyến khích học viên tìm kiếm các hợp đồng nghiên cứu khoa học với các doanh nghiệp, các cơ quan nghiên cứu nhằm tạo ra kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học.

- Phát động phong trào nghiên cứu khoa học tới toàn thể các giảng viên và học viên cao học. Vào đầu mỗi năm học, Khoa Sau đại học phối hợp với Phòng Quản lý khoa học xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học, khuyến khích học viên cao học đăng ký các đề tài phù hợp. Những đề tài nghiên cứu khoa học này có thể ở qui mô nhỏ và là một phần trong định hướng luận văn thạc sĩ của học viên. Song song với quá trình này, các giảng viên, cán bộ hướng dẫn khoa học sẽ là những người hướng dẫn học viên của mình từng bước thực hiện luận văn thạc sĩ.

Thứ năm, các giải pháp về phối, kết hợp với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp

Để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cần có sự phối, kết hợp tốt giữa các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp với Nhà trường trong quá trình đào tạo từ khâu tuyển sinh, góp ý xây dựng, cập nhật nội dung chương trình đào tạo, đặt hàng để nghiên cứu các đề tài liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp

Thứ sáu, đề xuất tăng quyền tự chủ toàn diện

Hiện nay, Chính phủ đã thí điểm giao quyền tự chủ cho một số trường, tiến tới giao quyền tự chủ cho tất cả các trường. Tuy nhiên, trên thực tế, việc giao quyền tự chủ như hiện nay vẫn còn ít nhiều mang tính hình thức, nhiều quyền vẫn chưa được giao đầy đủ. Bộ Giáo dục và Đào tạo với chức năng là cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục, nên chuyển từ chức năng “kiểm soát” sang chức năng “giám sát” hoạt động đào tạo của các trường đại học. Hiện nay, ở Việt Nam, các cơ sở giáo dục đại học phần chính được xếp ở khu vực thể chế quản lý nhà nước (có nguồn vốn hoạt động từ ngân sách nhà nước). Việc xếp các cơ sở giáo dục đại học vào khu vực thể chế quản lý nhà nước đã làm giảm quy mô kinh phí cho hoạt động quản lý nhà nước, ảnh hưởng đến hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước. Để tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường đại học nói chung và Trường Đại học Ngoại thương nói riêng cần chuyển sang khu vực thể chế phi tài chính (có nguồn vốn hoạt động là kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh), cần giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đầy đủ cho các trường đại học, chuyển thí điểm và chuyển dần các trường đại học về đúng khu vực thể chế phi tài chính với đầy đủ các quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ thực hiện chức năng giám sát, không phải kiểm soát như hiện nay.

Thứ bảy, các giải pháp tiếp tục đổi mới phát triển nguồn lực, phát triển đội ngũ giảng viên thỉnh giảng

Một trong những điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo là đảm bảo các nguồn lực cho đào tạo. Đội ngũ giảng viên có bằng tiến sĩ của Nhà trường đang tăng nhanh trong các năm qua là nguồn cho đội ngũ trực tiếp tham gia giảng dạy, hướng dẫn luận văn thạc sĩ, tuy nhiên một số ngành vẫn chưa đáp ứng đủ đội ngũ giảng viên. Để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, Nhà trường cầntriến khai một số giải pháp sau: Tiếp tục cử các giảng viên trẻ đi học tập nghiên cứu tại các trường đại học uy tín trong và ngoài nước; Đảm bảo đời sống, thu nhập của nhà giáo, tạo động lực để họ công tác tốt; Cần phát triển đội ngũ giảng viên thỉnh giảng, tiếp tục đẩy mạnh mời các chuyên gia, giảng viên có trình độ, uy tín trong và ngoài nước, tăng tỷ lệ giảng viên quốc tế để cùng tham gia giảng dạy và hướng dẫn luận văn thạc sĩ. Việc phát triển đội ngũ giảng viên thỉnh giảng cần ban hành qui định chi tiết về tiêu chuẩn, chức trách, nhiệm vụ của giảng viên thỉnh giảng như: về công trình công bố của giảng viên, giảng dạy theo đúng đề cương môn học đã được phê duyệt, đảm bảo tiến độ giảng dạy, tham gia quản lí học viên cao học trong giờ học và xét tư cách dự thi, hướng dẫn và chấm luận văn thạc sĩ./.

 

 

 

Tài liệu tham khảo

  1. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam.
  2. Nghị quyết của Chính phủ về "Đổi mới cơ bản và toàn diện Giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020", số 05/NQ-CP, ngày 2/11/2005.
  3. Luật Giáo dục sửa đổi 2005 và 2009.
  4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư 15/2014/TT-BGDĐT ngày 15/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định chi tiết về đào tạo trình độ thạc sĩ.
  5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư 07/2015/TT-BGDĐT, ngày 16/4/2015 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định về khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo của giáo dục đại học và quy trình xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ.
  6. Nghị quyết về Đổi mới cơ bản và toàn diện Giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020, số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005.
  7. Trường Đại học Ngoại thương, Quy định đào tạo trình độ thạc sĩ ban hành kèm theo Quyết định số 362/QĐ-ĐHNT ngày 25/03/2016 của Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương.
  8. Lâm Quang Thiệp, “Về xu hướng hội nhập giáo dục đại học trên thế giới và những đổi mới của giáo dục đại học Việt Nam”. Trích từ Kỷ yếu Hội thảo Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam, Hội nhập và Thách thức, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội, 3/2004
  9. The History of Higher Education, ASHE Reader Series, Simon & Schuster Custom Publishing, 1997.
  10. Lê Đức Ngọc (2010), “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học và cao đẳng việt nam” Nhận rõ sự khác biệt giữa quản lý tự chủ và quản lý không tự chủ hội thảo khoa học
  11. Nghị Quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiêp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
  12. GS, TS. Lê Ngọc Hùng (2019), “Tự chủ đại học: Khái niệm và chính sách giáo dục ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản.

 

[1] Trường Đại học Ngoại thương, Email: canhnv@ftu.edu.vn

[2] Trường Đại học Ngoại thương, Email: sofia.tr@ftu.edu.vn

 

ĐỔI MỚI QUẢN LÝ ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ THẠC SĨ TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

                        Nguyễn Văn Cảnh[1]

Nguyễn Thị Sofia[2]

Tóm tắt

Bài viết này phân tích, đánh giá công tácquản lý đào tạo trình độ thạc sĩcủa Trường Đại học Ngoại thương (ĐHNT) trong điều kiện tự chủ và hội nhập quốc tế, được xem xét trên các mặt: 1). Đổi mới quản lý nội dung, chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ, 2). Tiếp tục đổi mới chuẩn đầu ra, tiêu chuẩn chất lượng, thực hiện kiểm định chất lượng và đảm bảo chất lượng chương trình đào tạo, 3). Đổi mới hoạt động quản lý người học theo hướng tăng cường tính tự chịu trách nhiệm của học viên kết hợp với việc giám sát đồng bộ, 4). Gắn kết hoạt động đào tạo và hoạt động nghiên cứu khoa học, 5). Các giải pháp về phối, kết hợp với công giới, 6). Đề xuất tăng quyền tự chủ toàn diện, 7). Các giải pháp tiếp tục đổi mới phát triển nguồn lực, phát triển đội ngũ giảng viên thỉnh giảng. Từ đó, đề xuất kiến nghị định huớng, giải pháp tiếp tục đổi mới quản lý đào tạo trình độ thạc sĩ củaTrường ĐHNT trong điều kiện tự chủ và hội nhập quốc tế trên các mặt đó.

Từ khóa: Đào tạo trình độ thạc sĩ, quản lý đào tạo trình độ thạc sĩ, đổi mới quản lý đào tạo trình độ thạc sĩ, chất lượng đào trình độ thạc sĩ, tự chủ, hội nhập quốc tế.

Abstract

The paper focuses on the analysis and assessment of the management of Master-level education of Foreign Trade University in the context of autonomy and international integration from the perspectives as follows: 1. The renewal of the management of the content and the structure of Master programs, 2. The continuation of the renewal of expected learning outcomes, quality standards, the implementation of quality accreditation and the assurance of programs’ quality, 3. The renewal of the student management in order to raise their self-taking responsibilities in accordance to the consistent supervision, 4. The connection of education actitvities with research ones,5. The solutions for the cooperation with organizations and enterprises., 6. The recommendations of raising the comprehensive autonomous rights, and continuing the renewal of the development of human resource and visiting lecturers. From all of these, the orientations and solutions are propose for the continuation of the renewal of Master-level education of Foreign Trade University in the situation of autonomy and international integration.

Keywords: Master-level education, Master-level education management, renewal of Master-level education management, Master pogram quality, autonomy, and international integration.

1. Đặt vấn đề

Hoạt động đào tạo đại học và sau đại học là sứ mạng, là nhiệm vụ trọng yếu của các trường đại học. Kết quả và chất lượng đào tạo cao hay thấp là một tiêu chí đánh giá vị thế và uy tín của nhà trường. Vì vậy, việc không ngừng phát triển đào tạo nói chung, đào tạo trình độ thạc sĩ nói riêng là mục tiêu mà các trường đại học hướng tới. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, vấn đề hội nhập về giáo dục đào tạo ngày càng sâu rộng, trước những thách thức của môi trường giáo dục luôn thay đổi, việc đổi mới quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo trình độ thạc sĩ của các trường đại học luôn trong điều kiện tự chủ và hội nhập là vấn đề được cơ sở đào tạo và của toàn xã hội quan tâm.

Trên thế giới “tự chủ đại học” gắn liền với sự thay đổi mối quan hệ giữa nhà nước và trường đại học theo xu hướng phát huy truyền thống đại học là tự do học thuật và mở rộng tự chủ tổ chức, tự chủ tài chính và tự chủ nhân sự. Ở Việt Nam, đến năm 2012, các chính sách giáo dục chưa sử dụng từ ngữ “tự chủ đại học” mà dùng nhiều từ ngữ như “tự chủ, quyền tự chủ, nguyên tắc tự chủ, cơ chế tự chủ, chế độ tự chủ và luôn gắn tự chủ với “tự chịu trách nhiệm” và “theo quy định pháp luật”. Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu để đổi mới quản lý hoạt động đào tạo sau đại học, nâng cao chất lượng đào tạo ngang tầm yêu cầu mới của phát triển bền vững đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế.

Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Để thực hiện mục tiêu này đòi hỏi các trường đại học Việt Nam, trong đó có Trường Đại học Ngoại thương phải thực sự có bước đột phá tạo ra được những chuyển biến rõ rệt trong nhận thức cũng như trong thực tiễn đào tạo.

2. Một số kết quả đạt được trong đào tạo trình độ thạc sĩ

Trường ĐHNT đã trải qua 2 giai đoạn: Giai đoạn đầu (từ 1960 đến 1993), Trường chỉ thực hiện các chương trình đào tạo trình độ đại học (trước đây gọi là bậc đại học). Giai đoạn sau (từ 1993 đến nay), Trường bắt đầu thực hiện đào tạo sau đại học (nay được gọi là đào tạo trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ), từmột chuyên ngành duy nhất là Kinh tế Thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế (nay là ngành Kinh tế quốc tế) theo Quyết định số 1955/QĐ-SĐH ngày 21/09/1992 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, đến nay Trường đã và đang đào tạo 8 ngành, chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ, đó là: (1) Kinh tế quốc tế giảng dạy bằng tiếng Việt, (2) Kinh tế quốc tế giảng dạy bằng tiếng Anh, (3) Quản trị kinh doanh, (4) Điều hành cao cấp, (5) Kinh doanh thương mại, (6) Tài chính - Ngân hàng, (7) Chính sách và Luật thương mại quốc tế, (8) Luật Kinh tế. Trải qua 25 năm đào tạo trình độ thạc sĩ, trường Đại học Ngoại thương đạt được một số kết quả sau:

Thứ nhất, xuất phát từ việc coi đào tạo trình độ thạc sĩ bậc đào tạo chuyên sâu, dựa trên nền tảng đào tạo ở trình độ đại học và có mối liên hệ thống nhất với đào tạo đại học, các chương trình đào tạo thạc sĩluôn được Nhà trường đặc biệt quan tâm đổi mới theo hướng cập nhật kiến thức chuyên ngành, tăng cường kiến thức liên ngành nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Các chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ được xây dựng trên tinh thần quán triệt quan điểm đó và có tham khảo các chương trình đào tạo thạc sĩ của các trường đại học trong và ngoài nước. Qua thực tế các khóa đào tạo, các chương trình này đã đáp ứng được nhu cầu của người học, nhu cầu của các cơ quan sử dụng người học.

Thứ hai, đội ngũ cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý đào tạo sau đại học không ngừng được củng cố và ngày càng lớn mạnh. Chính sách thu hút sự tham gia đóng góp của các nhà khoa học trong và ngoài trường được xuyên suốt trong mọi hoạt động của Nhà trường. Trong 25 năm qua, hơn 150 nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao, có uy tín và tâm huyết với nghề đã tham gia giảng dạy, xây dựng chương trình, hướng dẫn, đánh giá luận văn. Để phát huy khả năng đóng góp của đội ngũ các nhà khoa học cho trình độ thạc sĩ, Nhà trường đã luôn cố gắng đảm bảo điều kiện làm việc thuận lợi, chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho đội ngũ cán bộ khoa học. Cùng với việc xây dựng và phát triển đội ngũ các nhà khoa học, Nhà trường cũng chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo trình độ thạc sĩ. Từ chỗ chỉ có 02 người khi mới thành lập, đến nay, Khoa Sau đại học đã có một đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, gồm 10 thành viên trong đó có 01 phó giáo sư, 02 tiến sĩ, 07 thạc sĩ.

Thứ ba, sau 25 năm đào tạo sau đại học, qui mô đào tạo trình độ thạc sĩ và tiến sĩ của Trường không ngừng phát triển, Nhà trường đã và đang đào tạo các học viên trong và ngoài nước từ Hàn Quốc, Cộng hoà DCND Lào, Vương quốc Căm-pu-chia, Trung Quốc, Mông Cổ, ... vớihơn 5.000 học viên cao học của 8 chuyên ngành đào tạo là lực lượng nòng cốt trong lĩnh vực kinh tế quốc tế, quản trị kinh doanh, kinh doanh thương mại, tài chính - ngân hàng, pháp luật và ngoại ngữ của đất nước. Các thạc sĩ được đào tạo tại Trường Đại học Ngoại thương luôn được xã hội đánh giá cao, họ đã luôn xứng đáng với truyền thống của Trường và khi trở về cơ quan đều đã phát huy được vai trò của mình trong công tác, vận dụng được các kiến thức đã học ở Trường để giúp cơ quan, doanh nghiệp hoạch định chính sách, chiến lược ở tầm vĩ mô và vi mô, giải quyết tốt các vấn đề thực tiễn đặt ra.

Thứ tư, hợp tác quốc tế về đào tạo sau đại học của Nhà trường trong những năm qua cũng có bước phát triển. Với vị thế là một trong những trường đại học hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và quản trị kinh doanh quốc tế, Trường Đại học Ngoại thương đã trở thành đối tác của nhiều trường đại học nước ngoài, nhiều tổ chức quốc tế trong nhiều dự án hợp tác đào tạo và nghiên cứu sau đại học. Chương trình hợp tác đào tạo sau đại học đầu tiên tại Trường Đại học Ngoại thương đánh dấu một bước đi quan trọng trong lĩnh vực hợp tác đào tạo là chương trình hợp tác đào tạo trình độ thạc sĩ chuyên ngành Luật Kinh doanh quốc tế với Đại học Tours được Nhà trường giao cho Khoa Sau đại học tổ chức thực hiện từ năm 2001. Tiếp nối thành công đã đạt được trong việc tổ chức chương trình liên kết đào tạo đầu tiên này, Trường Đại học Ngoại thương đã giao nhiệm vụ cho Khoa Sau đại học triển khai một số chương trình khác như: chương trình hợp tác đào tạo cao học Quản trị dự án với Đại học Nantes (Cộng hòa Pháp), chương trình đào tạo thạc sĩ Nghiên cứu quan hệ kinh tế Á – Âu của Trường Đại học Rennes 2, chương trình đào tạo thạc sĩ chuyên ngành Chính sách và Luật thương mại quốc tế của Viện Thương mại thế giới (WTI) thuộc Trường Đại học Tổng hợp Bern, Thụy Sĩ và cũng gặt hái được những thành công nhất định nhờ vào chất lượng đào tạo, trình độ của học viên tốt nghiệp và công tác tổ chức thực hiện chương trình. Thông qua các dự án hợp tác này, đội ngũ giảng viên của Nhà trường có điều kiện trao đổi về chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy với các giảng viên của các trường đại học lớn trên thế giới, từng bước nâng cao chất lượng đào tạo trình độ thạc sĩ của Trường lên ngang tầm với chất lượng đào tạo của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Thứ năm, Nhà trường luôn quan tâm đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và học tập sau đại học. Các học viên cao học được dành riêng 15 phòng học có điều hòa nhiệt độ, máy vi tính, máy chiếu, 01 thư viện và phòng đọc với hệ thống máy tính nối mạng, 1 phòng bảo vệ luận văn thạc sĩ.

Phát huy những kết quả đã đạt được, trong thời gian tới, Trường Đại học Ngoại thương sẽ tiếp tục đổi mới hơn nữa công tác đào tạo trình độ thạc sĩ nhằm nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu hội nhập. Nhiệm vụ đặt ra là: rà soát và hoàn thiện các chương trình đào tạo đã có; xây dựng các chương trình đào tạo cho các ngành mới theo hướng liên thông và hội nhập; đổi mới căn bản phương pháp giảng dạy, chú trọng phương pháp nêu vấn đề, lấy người học làm trung tâm, tăng cường sử dụng trang thiết bị dạy học; tăng cường công tác quản lý quá trình đào tạo sau đại học.

Đạt được các kết quả trên là nhờ các nguyên nhân sau: (1) Nhờ quyết tâm và tầm nhìn của lãnh đạo Trường qua các thế hệ; (2) Nhờ sự đồng lòng của tập thể cán bộ, giảng viên Nhà trường đã tích cực thực hiện chủ trương đào tạo trình độ mọi mặt cho đội ngũ viên chức,đến nay đội ngũ giảng viên đã có biến đổi rõ rệt về số lượng và chất lượng, số lượng giáo viên có học vị tiến sĩ đã liên tục tăng qua các năm, đến nay trường có 1 giáo sư, 40 phó giáo sư và 94 tiến sĩ. (3) Nhờ sự hợp tác có hiệu quả với các đối tác, các nhà khoa học uy tín ngoài trường.

3. Một số hạn chế và nguyên nhân

Còn một số hạn chế nhất định về quản lý đào tạo và chất lượng đào tạo trình độ thạc sĩ của Trường Đại học Ngoại thương trong thời gian qua. Một số hạn chế và nguyên nhân của hạn chế về quản lý đào tạo trình độ thạc sĩ như:

(1) Hình thức tổ chức đào tạo chủ yếu là học không tập trung (các buổi tối trong tuần hoặc các ngày cuối tuần, không có sự quản lý chặt chẽ cả tự quản và bị quản) do các học viên là những người đang đi làm việc tại các cơ quan, tổ chức không sắp xếp được thời gian học ban ngày vì vậy việc tổ chức đào tạo ban ngày chỉ triển khai được một vài lớp của các ngành QTKD, TC-NH, Luật Kinh tế, còn một số ngành khác do không đủ số lượng người học nên không đủ điều kiện tổ chức;

(2) Nhà trường chưa kiểm định và đánh giá các chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ do việc triển khai kiểm định chương trình cần phải đảm bảo các điều kiện cần thiết trước khi đưa ra kiểm định. Vì vậy, Nhà trường đang tổ chức và triển khai từng bước để tiến hành kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ, các bước đã và đang triển khai như kiểm định chất lượng giáo dục, rà soát chương trình đào tạo,…;

(3) Tổ chức quản lý quá trình đào tạo chưa được thường xuyên đổi mới, phân quyền trong tổ chức quản lý giữa trường và các đơn vị chưa thực sự thường xuyên được hoàn thiện, người học chưa gắn với bộ môn, chưa kiểm soát đào tạo theo quá trình... Do việc tổ chức quản lý đào tạo được áp dụng theo quy định đào tạo trình độ thạc sĩ của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của Nhà trường, trong khi nội dung quy chế đào tạo (quy định về chức năng, nhiệm vụ, cách thức tổ chức quản lý,…) và được áp dụng trong thời gian dài;

(4) Trong tuyển sinh, chưa chú trọng đúng mức khâu chuẩn bị của thí sinh, các chương trình tổ chức đào tạo một số học phần tại các địa phương còn hạn chế. Nhà trường tổ chức các lớp học ôn thì, hướng dẫn ôn tập để thí sinh chuẩn bị, nhưng do thời gian tuyển sinh ngắn nên việc tổ chức các lớp ôn tập thường bị hạn chế về thời gian. Đối với các học phần tại các địa phương do nhiều vướng mắc về quy chế đào tạo như phải thực hiện các thủ tục xin phép nên việc triển khai còn nhiều hạn chế;

(5) Đội ngũ giảng viên, người hướng dẫn khoa học một số ngành chưa đủ và chưa thực sự ổn định do số lượng người học một số ngành tăng, trong khi các giảng viên đang trong thời gian làm nghiên cứu sinh hoặc một số giảng viên là tiến sĩ chuyển công tác. Do nhu cầu đào tạo của xã hội ở một số ngành tăng cao hàng năm, trong khi đội ngũ nhà khoa học cơ hữu tăng lên nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu mới;

(6) Quan hệ với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu về đào tạo thạc sĩ và sử dụng lao động có trình độ thạc sĩ chưa thực sự hiệu quả. Việc “học” cần đi đổi với “hành” và việc tổ chức đào tạo cho người học cần gắn với thực tiễn để gắn kết lý luận với thực tiễn. Vì vậy, việc tham gia của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp là thực sự cần thiết từ yêu cầu của nội dung chương trình đến nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, một số cơ quan sử dụng lao động do một số hạn chế nhất định đã không tham gia vào việc phối hợp đào tạo với các cơ sở đào tạo;

(7) Chưa có bộ giáo trình chuẩn cho từng chương trình đào tạo. Do các chương trình thường xuyên được cập nhật, một số học phần thường xuyên được thay đổi, các nhà khoa học cũng chưa thực sự chú trọng trong việc biên soạn giáo trình, sách chuyên khảo phục vụ cho đào tạo trình độ thạc sĩ;

 (8) Thư viện và học liệu chưa đảm bảo ở mức cao mặc dù được sự quan tâm của Nhà trường trong việc trang thiết bị học liệc cho Thư viện, nhưng do hạn chế về kinh phí hoặc cung cấp thông tin về học liệu từ nguồn trong và ngoài nước nên thực tế số học liệu hiện có vẫn chưa đủ để người học tham khảo;

 (9) Cơ sở vật chất chưa thực sự đảm bảo cho quá trình đào tạo. Nhà trường luôn quan tâm đến cơ sở vật chất phục vụ cho đào tạo trình độ thạc sĩ, nhưng do còn hạn chế về tài chính nên một số phòng học chưa được trang bị đủ thiết bị hiện đại cho các phòng học.

4. Đề xuất một số định hướng và giải pháp đổi mới quản lý đào tạo trình độ thạc sĩ trong điều kiện tự chủ và hội nhập nhằm nâng cao chất đào tạo

Đào tạo trình độ thạc sĩ ở trường ĐHNT trong 25 năm qua đã khẳng định vai trò và vị thế xứng đáng trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, Nhà trường vẫn cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo trình độ thạc sĩ. Để chất lượng đào tạo trình độ thạc sĩ ngày càng nâng cao, ngang tầm khu vực và thế giới, giải quyết tốt mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng và mở rộng qui mô đào tạo, các đề xuất dưới đây về đổi mới quản lý đào tạo trình độ thạc sĩ không nằm ngoài mục tiêu trên.

4.1. Định hướng

Thứ nhất, định hướng đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo trình độ thạc sĩ trong điều kiện tự chủ và hội nhập quốc tế

- Đổi mới đào tạo trình độ thạc sĩ cần phù hợp với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, định hướng này liên quan đến chất lượng đào tạo tiệm cận chất lượng đào tạo quốc tế, đòi hỏi nội dung chương trình đào tạo phải thường xuyên cập nhật, tham khảo các chương trình của các trường đại học danh tiếng trong nước và trên thế giới.

- Đổi mới đào tạo trình độ thạc sĩ cần khai thác tối đa các cơ hội do việc trao quyền tự chủ mang lại, phù hợp với nhu cầu xã hội trên cơ sở huy động, kết hợp các chủ thể có liên quan.

Thứ hai, đổi mới là quá trình, đòi hỏi thường xuyên hoàn thiện, đòi hỏi kiểm định chất lượng theo tiêu chuẩn.

Chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ cần được thường xuyên hoàn thiện trên cơ sở kịp thời phát hiện những bất cập để có điều chỉnh kịp thời. Chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ liên quan đến chiến lược sản phẩm, gắn nhu cầu thị trường (nhu cầu xã hội), do nhu cầu xã hội thường xuyên thay đổi, vì vậy, sản phẩm đào tạo cũng cần có sự thay đổi để đáp ứng nhu cầu xã hội, để đạt hiệu quả hơn.

Chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ cần được kiểm định, tuyên bố với xã hội về chất lượng đào tạo của một chương trình theo một chuẩn nào đó và cũng là sự công nhận của xã hội về chất lượng đào tạo.

4.2. Giải pháp

Thứ nhất, đổi mới quản lý nội dung chương trình đào tạo, phát triển chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ

Mục tiêu của việc học thạc sĩ (master) hiểu một cách đơn giản là để người học nắm vững được (lý tưởng là đến mức tinh thông, như nghĩa của chữ “master”) các tri thức của một ngành đào tạo. Những người có trình độ thạc sĩ là những người có trình độ chuyên ngành vững chắc, sau khi được học nâng cao và cùng với kinh nghiệm làm việc đã tích lũy được, họ sẽ có thêm kiến thức liên ngành và năng lực thực hiện công tác chuyên môn cũng như nghiên cứu khoa học trong ngành được đào tạo.

Để thiết kế một chương trình đào tạo phù hợp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo,Nhà trường cần huy động các nhà khoa học (trong và ngoài trường) có kinh nghiệm, am hiểu những nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng chương trình như: mục tiêu của chương trình, chuẩn đầu ra, cấu trúc chương trình, qui trình làm chương trình, tham khảo chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước và phải căn cứ vào các văn bản pháp luật hiện hành. Chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ cần thiết kế nội dung hợp lý cho từng ngành, cung cấp các học phần phù hợp với ngành đào tạo (không phải theo khả năng người dạy), đáp ứng nhu cầu người học, giúp học viên tiếp thu tri thức một cách hệ thống, chuyên sâu, có khả năng áp dụng hiệu quả tri thức đã tiếp thu vào trong thực tiễn.

Việc đổi mới nội dung, chương trình đào tạo như trên, Nhà trường cần rà soát, cập nhật thường xuyên các học phần trong chương trình đào tạo, để từ đó có sự điều chỉnh, bổ sung kịp thời các học phần, đáp ứng những đòi hỏi do nhu cầu thực tiễn đặt ra. Đồng thời, Nhà trường cần có các giáo trình, sách chuyên khảo dành riêng cho đào tạo trình độ thạc sĩ đối với một số môn học chủ chốt của các ngành đào tạo. Đây là một vấn đề then chốt và cần khắc phục vì hiện nay học viên cao học chưa có giáo trình các học phần của cả 8chương trình đào tạo nói trên (riêng môn Triết học đã có giáo trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo áp dụng chung cho các chương trình đào tạo). Có giáo trình và sách tham khảo sẽ quyết định cách giảng bài của giảng viên và khả năng tự học của học viên. Mặt khác, hàng năm Nhà trường cần khảo sát lấy ý kiến của người học, của các cơ quan sử dụng học viên, các nhà quản lý, các nhà khoa học về chương trình đào tạo để có thêm nguồn thông tin về tính ý nghĩa, tính thực tế của chương trình đào tạo từ người học và nhà sử dụng “sản phẩm đào tạo”.

Bên cạnh đó, cần nghiên cứu phát triển thêm một số ngành đào tạo mới như: Quản lý kinh tế, Kế toán,…phù hợp với khả năng của Nhà trường, đáp ứng nhu cầu đào tạo trình độ thạc sĩ của xã hội và tạo ra lợi thế “cạnh tranh” mới, vị thế của Nhà trường.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới chuẩn đầu ra, tiêu chuẩn chất lượng, thực hiện kiểm định chất lượng và đảm bảo chất lượng chương trình đào tạo

Năm 2017, Trường Đại học Ngoại thương được Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục trao Giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giai đoạn 2011-2016, đánh giá cao ở cả 10 tiêu chuẩn mà Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Đó là sứ mạng và mục tiêu của trường đại học; tổ chức và quản lý; chương trình giáo dục; hoạt động đào tạo; đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên và nhân viên; người học; nghiên cứu khoa học, ứng dụng, phát triển và chuyển giao công nghệ; hoạt động hợp tác quốc tế; thư viện, trang thiết bị học tập và cơ sở vật chất khác; tài chính và quản lý tài chính. Tuy nhiên, đó mới là kiểm định và đánh giá chất lượng trường đại học, việc kiểm định chương trình đào tạo đang được Nhà trường quan tâm và triển khai. Dự kiến đánh giá mời các tổ chức kiểm định quốc tế đánh giá và kiểm định chất lượng chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ trong năm 2020.

Đánh giá, kiểm định và công bố chất lượng đào tạo là sự công nhận của xã hội về một chất lượng đào tạo, là sự tuyên bố với xã hội về chất lượng đào tạo của một chương trình theo một chuẩn nào đó. Mỗi người học cần biết đầy đủ thông tin về năng lực, chất lượng đào tạo của mỗi trường, chuyên ngành, đội ngũ nhân sự,… mà họ sẽ đăng ký và tham gia học. Kiểm định chất lượng là công cụ hữu hiệu để kiểm soát chất lượng và nâng cao tính minh bạch của một chương trình đào tạo. Ngoài ra, kiểm định chất lượng còncó tác dụng tăng uy tín cho các trường, giúp các nhà quản lý, các trường đại học tự xem xét toàn bộ hoạt động đào tạo của mình một cách có hệ thống, từ đó điều chỉnh theo một chuẩn mực nhất định để ngày càng đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo.

Ngoài hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ (Internal Quality Assurance - IQA). Trường Đại học Ngoại thương cần mời các tổ chức kiểm định độc lập và các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác thực hiện đảm bảo chất lượng bên ngoài (External Quality Assurance - EQA). Việc kiểm định chất lượng không tạo ra ngay chất lượng đào tạo mà nó là tấm gương phản ảnh chất lượng đào tạo, giúp cho Nhà trường nhìn nhận lại chất lượng hiện tại của mình và tuyên bố với “khách hàng” của mình về hiện trạng chất lượng chương trình đào tạo, đồng thời giúp người tham gia đào tạo nhận thức được những tiêu chuẩn cần thiết, biết được điểm mạnh, điểm yếu của chương trình đào tạo để hoàn thiện, nâng cao chất lượng đào tạo.

Thứ ba, đổi mới hoạt động quản lý người học theo hướng tăng cường tính tự chịu trách nhiệm của học viên kết hợp với việcgiám sát đồng bộ

Hoạt động học của học viên cao học tại cơ sở đào tạo nhằm lĩnh hội tri thức mới, chuyên sâu; là hoạt động có ý thức của người học nhằm thay đổi bản thân, hướng vào việc hình thành, phát triển toàn diện nhân cách cá nhân. Có thể hiểu quản lý hoạt động của học viên thực chất là quản lý việc thực hiện nhiệm vụ của học viên trong quá trình đào tạo, bao gồm: theo dõi, đánh giá kết quả học tập, nghiên cứu, thúc đẩy tạo điều kiện để học viên nâng cao kiến thức, hoàn thiện bản thân. Để quản lý hoạt động học của học viên cao học theo hướng tăng cường tính tự chịu trách nhiệm của học viên kết hợp với việc giám sát đồng bộ được hiệu quả, Khoa Sau đại học cần: Rà soát quy định đào tạo trình độ thạc sĩ để điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng người học; Phổ biến, hướng dẫn cho học viên nắm vững qui định của Nhà trường, của Bộ Giáo dục và Đào tạo liên quan đến đào tạo trình độ thạc sĩ, cũng như kế hoạch học tập của toàn khóa học, từng học kỳ để học viên chủ động về thời gian tham gia khóa học; Lãnh đạo Khoa Sau đại học thường xuyên có buổi họp định kỳ với các lớp học để nắm bắt tình hình thực hiện nhiệm vụ của học viên đồng thời tiếp thu thông tin phản hồi từ người học, từ đó kịp thời có những biện pháp điều chỉnh, bổ sung phù hợp. Trao đổi trực tiếp giữa Khoa Sau đại học với giảng viên giảng dạy để quản lý, theo dõi giờ lên lớp, tình hình học tập và tinh thần, thái độ của học viên.

Thứ tư, gắn kết hoạt động đào tạo và hoạt động nghiên cứu khoa học

Hoạt động đào tạo và hoạt động nghiên cứu là hai nhiệm vụ chủ yếu của mỗi cơ sở đào tạo. Nghiên cứu khoa học sẽ tận dụng được tiềm năng chất xám của đội ngũ giảng viên có trình độ, có kinh nghiệm cũng như của những học viên có đam mê nghiên cứu, có những ý tưởng sáng tạo. Đồng thời, giúp cho học viên tìm ra được những kiến thức mới, những phương pháp mới, để bổ sung và nâng cao trình độ bản thân cũng như phát huy khả năng nghiên cứu khoa học. Để gắn kết hoạt động đào tạo và hoạt động nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Ngoại thương cần:

- Kết hợp với các giảng viên lập nên những nhóm học viên cao học tham gia vào các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, cấp Bộ. Học viên sẽ được làm quen với công việc nghiên cứu ngay trong khi nghiên cứu các môn học trong chương trình đào tạo của mình, những kiến thức thu được từ các môn học sẽ được áp dụng thực tế. Học đi đôi với hành sẽ làm cho việc học trở nên bớt nhàm chán, căng thẳng.

- Thường xuyên tổ chức hội thảo khoa học nhằm tạo cơ hội cho các học viên được tham gia nghiên cứu. Những hội thảo này có thể đi sâu vào việc tư vấn viết từng chương trong luận văn, tư vấn tìm tài liệu, tư vấn trình bày theo đúng văn phong khoa học. Tại những cuộc hội thảo như thế, các cán bộ hướng dẫn khoa học sẽ có cơ hội trình bày những kinh nghiệm của mình tới toàn thể các học viên mà không dành riêng cho học viên mà họ hướng dẫn.

- Tăng cường đầu tư kinh phí, quản lí về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên nhằm đảm bảo các sản phẩm nghiên cứu đạt chất lượng cao cũng là một nội dung quan trọng. Sẽ là thiếu thực tế nếu Nhà trường chỉ động viên các giảng viên, học viên về mặt tinh thần mà không có chế độ đãi ngộ, trả công xứng đáng cho những sản phẩm nghiên cứu của họ. Khó khăn đặt ra với công tác này là kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học ở các trường đại học rất ít. Trong khi đó, lao động chất xám khó có thể định mức được. Vì vậy, trước hết cần khuyến khích học viên tìm kiếm các hợp đồng nghiên cứu khoa học với các doanh nghiệp, các cơ quan nghiên cứu nhằm tạo ra kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học.

- Phát động phong trào nghiên cứu khoa học tới toàn thể các giảng viên và học viên cao học. Vào đầu mỗi năm học, Khoa Sau đại học phối hợp với Phòng Quản lý khoa học xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học, khuyến khích học viên cao học đăng ký các đề tài phù hợp. Những đề tài nghiên cứu khoa học này có thể ở qui mô nhỏ và là một phần trong định hướng luận văn thạc sĩ của học viên. Song song với quá trình này, các giảng viên, cán bộ hướng dẫn khoa học sẽ là những người hướng dẫn học viên của mình từng bước thực hiện luận văn thạc sĩ.

Thứ năm, các giải pháp về phối, kết hợp với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp

Để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cần có sự phối, kết hợp tốt giữa các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp với Nhà trường trong quá trình đào tạo từ khâu tuyển sinh, góp ý xây dựng, cập nhật nội dung chương trình đào tạo, đặt hàng để nghiên cứu các đề tài liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp

Thứ sáu, đề xuất tăng quyền tự chủ toàn diện

Hiện nay, Chính phủ đã thí điểm giao quyền tự chủ cho một số trường, tiến tới giao quyền tự chủ cho tất cả các trường. Tuy nhiên, trên thực tế, việc giao quyền tự chủ như hiện nay vẫn còn ít nhiều mang tính hình thức, nhiều quyền vẫn chưa được giao đầy đủ. Bộ Giáo dục và Đào tạo với chức năng là cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục, nên chuyển từ chức năng “kiểm soát” sang chức năng “giám sát” hoạt động đào tạo của các trường đại học. Hiện nay, ở Việt Nam, các cơ sở giáo dục đại học phần chính được xếp ở khu vực thể chế quản lý nhà nước (có nguồn vốn hoạt động từ ngân sách nhà nước). Việc xếp các cơ sở giáo dục đại học vào khu vực thể chế quản lý nhà nước đã làm giảm quy mô kinh phí cho hoạt động quản lý nhà nước, ảnh hưởng đến hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước. Để tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường đại học nói chung và Trường Đại học Ngoại thương nói riêng cần chuyển sang khu vực thể chế phi tài chính (có nguồn vốn hoạt động là kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh), cần giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đầy đủ cho các trường đại học, chuyển thí điểm và chuyển dần các trường đại học về đúng khu vực thể chế phi tài chính với đầy đủ các quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ thực hiện chức năng giám sát, không phải kiểm soát như hiện nay.

Thứ bảy, các giải pháp tiếp tục đổi mới phát triển nguồn lực, phát triển đội ngũ giảng viên thỉnh giảng

Một trong những điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo là đảm bảo các nguồn lực cho đào tạo. Đội ngũ giảng viên có bằng tiến sĩ của Nhà trường đang tăng nhanh trong các năm qua là nguồn cho đội ngũ trực tiếp tham gia giảng dạy, hướng dẫn luận văn thạc sĩ, tuy nhiên một số ngành vẫn chưa đáp ứng đủ đội ngũ giảng viên. Để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, Nhà trường cầntriến khai một số giải pháp sau: Tiếp tục cử các giảng viên trẻ đi học tập nghiên cứu tại các trường đại học uy tín trong và ngoài nước; Đảm bảo đời sống, thu nhập của nhà giáo, tạo động lực để họ công tác tốt; Cần phát triển đội ngũ giảng viên thỉnh giảng, tiếp tục đẩy mạnh mời các chuyên gia, giảng viên có trình độ, uy tín trong và ngoài nước, tăng tỷ lệ giảng viên quốc tế để cùng tham gia giảng dạy và hướng dẫn luận văn thạc sĩ. Việc phát triển đội ngũ giảng viên thỉnh giảng cần ban hành qui định chi tiết về tiêu chuẩn, chức trách, nhiệm vụ của giảng viên thỉnh giảng như: về công trình công bố của giảng viên, giảng dạy theo đúng đề cương môn học đã được phê duyệt, đảm bảo tiến độ giảng dạy, tham gia quản lí học viên cao học trong giờ học và xét tư cách dự thi, hướng dẫn và chấm luận văn thạc sĩ./.

 

 

 

Tài liệu tham khảo

  1. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam.
  2. Nghị quyết của Chính phủ về "Đổi mới cơ bản và toàn diện Giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020", số 05/NQ-CP, ngày 2/11/2005.
  3. Luật Giáo dục sửa đổi 2005 và 2009.
  4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư 15/2014/TT-BGDĐT ngày 15/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định chi tiết về đào tạo trình độ thạc sĩ.
  5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư 07/2015/TT-BGDĐT, ngày 16/4/2015 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định về khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo của giáo dục đại học và quy trình xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ.
  6. Nghị quyết về Đổi mới cơ bản và toàn diện Giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020, số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005.
  7. Trường Đại học Ngoại thương, Quy định đào tạo trình độ thạc sĩ ban hành kèm theo Quyết định số 362/QĐ-ĐHNT ngày 25/03/2016 của Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương.
  8. Lâm Quang Thiệp, “Về xu hướng hội nhập giáo dục đại học trên thế giới và những đổi mới của giáo dục đại học Việt Nam”. Trích từ Kỷ yếu Hội thảo Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam, Hội nhập và Thách thức, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội, 3/2004
  9. The History of Higher Education, ASHE Reader Series, Simon & Schuster Custom Publishing, 1997.
  10. Lê Đức Ngọc (2010), “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học và cao đẳng việt nam” Nhận rõ sự khác biệt giữa quản lý tự chủ và quản lý không tự chủ hội thảo khoa học
  11. Nghị Quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiêp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
  12. GS, TS. Lê Ngọc Hùng (2019), “Tự chủ đại học: Khái niệm và chính sách giáo dục ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản.

 

[1] Trường Đại học Ngoại thương, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

[2] Trường Đại học Ngoại thương, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.