Sidebar

Magazine menu

03
T6, 05

Tạp chí KTĐN số 116

 

CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC QUỐC GIA CỦA HÀN QUỐC[1]

Nguyễn Hồng Quân[2]

Nguyễn Thu Thủy[3]

 

Tóm tắt

Hàn Quốc là một quốc gia có nền giáo dục hàng đầu châu Á, có sự tăng trưởng và phát triển ngoạn mục về kinh tế trong suốt những thập niên cuối thế kỷ XX. Mặc dù đầu những năm 1960, Hàn Quốc là một trong những quốc gia có thu nhập bình quân đầu người thuộc các nước thấp nhất thế giới - chưa đến 100 USD, đến nay thu nhập đầu người của Hàn Quốc đạt gần  30.000 USD/năm, trong khi tài nguyên thiên nhiên không phải là thế mạnh của quốc gia này. Cùng với khoảng thời gian đổi mới và phát triển kinh tế, chiến lược phát triển quốc gia về nguồn nhân lực mới cũng được tiến hành và đã có sự đóng góp không nhỏ đến thành công của Hàn Quốc ngày hôm nay. Bài viết này nghiên cứu và phân tích chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân lực quốc gia của Hàn Quốc, chỉ ra mối quan hệ giữa chính sách phát triển nguồn nhân lực với những thành tựu mà ngành giáo dục và nền kinh tế Hàn Quốc đã đạt được trong thời gian qua, cùng một số bài học kinh nghiệm cho các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

Từ khóa: Chiến lược phát triển, chính sách phát triển, nguồn nhân lực, Hàn Quốc.

Abstract

Korea is the Asia's leading education countries, with spectacular economic growth and development during the last decades of the 20th century. Although in the early 1960s, Korea was one of those countries with the lowest per capita income in the world - less than USD100, Korea's per capita income now has reached nearly USD30,000/year, while natural resources are not the strength of the country. Along the period of innovation and economic development, the national strategy for human resource development has also been carried out and made a great contribution to the success of Korea today. This paper studies and analyzes Korea's national strategy and policies in human resource development, points out the relationship between those strategy & policies and the achievements that the education sector and the Korea's economy as a whole have gained over the recent years, then draws relevant lessons for developing countries, including Vietnam.

Keywords: Strategy, policies, human resource development, Korea

  1. Đặt vấn đề

Con người là trung tâm của mọi hoạt động trong xã hội loài người. Vai trò của nguồn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế đã được ghi nhận trong các lý thuyết về tăng trưởng nội sinh của Romer (1986), Lucas (1988), Squire và cộng sự (1993), Bassanini & Scarpetta (2001) đã xác định nguồn nhân lực trở thành yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo. Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng, năng lực, khả năng của mỗi cá nhân, của mỗi cộng đồng và toàn xã hội đã tạo ra sự phát triển cho xã hội được thể hiện qua các yếu tố như giáo dục, chuyên môn, kỹ năng lao động, mức sống, sức khỏe, tư tưởng tình cảm. Trong các yếu tố đó thì hai nhân tố quan trọng và bao quát nhất là giáo dục và sức khỏe.

Nhận thức rõ điều này, năm 1948, khi Hàn Quốc được thành lập, chính phủ Hàn Quốc đã tiến hành xây dựng một hệ thống giáo dục mới. Qua nhiều lần cải cách, ngày nay hệ thống giáo dục đó được nhiều quốc gia nghiên cứu và học tập. Khi nói tới nền giáo dục của Hàn Quốc có thể nhìn nhận ở một số điểm nổi bật: (1) là nền giáo dục bảo đảm quyền bình đẳng về cơ hội cho mọi công dân, mọi người đều được học tập tùy theo năng lực của mình, không phân biệt giới tính, tôn giáo, vùng miền hay địa vị xã hội (những chính sách cụ thể hiện nay đã thể hiện nhất quán tư tưởng đó như giáo dục miễn phí, phát miễn phí sách giáo khoa cho học sinh ở bậc học bắt buộc); (2) có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống của đất nước; tất nhiên, giáo dục có vai trò quan trọng đối với mọi quốc gia nhưng ở Hàn Quốc, nó có tầm quan trọng quá đặc biệt; (3) do chính sách giáo dục bình đẳng, tinh thần hiếu học và sự đầu tư lớn từ cả nhà nước và người dân, Hàn Quốc có một nền giáo dục có chất lượng đáng để học tập. Để có được những thành quả đó, Hàn Quốc đã có những chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân lực hợp lý và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, một mặt tạo lập yếu tố đầu vào có chất lượng cho quá trình công nghiệp hóa đất nước, mặt khác còn tạo ra một thế hệ công dân mới, công dân toàn cầu. Bài viết này tập trung phân tích các chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân lực của Hàn Quốc, nhấn mạnh vào các chính sách giáo dục và đào tạo, từ đó chỉ ra các bài học kinh nghiệm cho các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

  1. Giới thiệu khái quát về bối cảnh kinh tế - xã hội của Hàn Quốc

2.1. Về kinh tế

Kinh tế Hàn Quốc đã có sự phát triển mạnh mẽ, từ một trong những nước nghèo nhất thế giới sau cuộc chiến tranh Triều Tiên trở thành một trong những nước giàu, đứng trong top 10 nước có GDP bình quân đầu người cao nhất ở khu vực châu Á[4]. Tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người (tính theo sức mua tương đương) của nước này đã nhảy vọt từ 100 USD vào năm 1963 lên 10.000 USD vào năm 1995, 25.000 USD vào năm 2007 và đạt mức 32.400 USD vào năm 2014. Theo một báo cáo phân tích và dự báo của Goldman Sachs (OECD, 2012), Hàn Quốc có thể trở thành nước giàu thứ 3 trên thế giới vào năm 2025 với GDP bình quân đầu người là 52.000 USD.

Kinh tế Hàn Quốc có sự nhảy vọt như vậy là nhờ vào chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ. Một mặt Hàn Quốc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nhằm mở rộng thị trường cho hàng hóa của Hàn Quốc, bên cạnh đó, Hàn Quốc còn tập trung vào phát triển nông nghiệp bên cạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa nhanh chóng. Cùng với sự phát triển khoa học công nghệ mạnh mẽ, gia tăng nhanh chóng chất lượng giáo dục và mức sống, Hàn Quốc đã đạt được mốc GDP 1.530 tỷ USD[5] năm 2017.

2.2. Về xã hội

Ở Hàn Quốc, ngôn ngữ chính thức là tiếng Hàn Quốc (tiếng Triều Tiên). Kể từ bậc tiểu học, học sinh đã được dạy tiếng Anh. Sau này tiếng Trung Quốc và tiếng Nhật cũng trở thành ngoại ngữ chính. Các ngôn ngữ Châu Âu như tiếng Pháp, tiếng Đức và tiếng Tây Ban Nha ít phổ biến hơn. Ở Hàn Quốc, có khoảng 46% của công dân không theo tôn giáo nào. Người theo đạo Cơ đốc chiếm 29,2% dân số (trong số đó là đạo Tin lành 18,3%, Công giáo 10,9%) và 22,8% là Phật tử; 1% là tín đồ đạo Khổng, 1% còn lại theo các tôn giáo khác. Tại Hàn Quốc có khoảng 45.000 người bản địa theo Hồi giáo (khoảng 0,09% dân số), bổ sung vào con số 100.000 lao động nước ngoài từ các quốc gia Hồi giáo.

2.3. Về giáo dục

Hệ thống trường học hiện đại ở Hàn Quốc gồm sáu năm tiểu học, ba năm trung học cơ sở và ba năm trung học phổ thông. Học sinh bắt buộc phải học tiểu học và trung học cơ sở nhưng không phải trả chi phí giáo dục, ngoại trừ một khoản phí nhỏ gọi là “Phí hỗ trợ hoạt động của nhà trường”, khoản phí này khác nhau tùy theo từng trường học. Chương trình đánh giá học sinh quốc tế, do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế thế giới (OECD) khởi xướng và chỉ đạo, xếp hạng giáo dục khoa học của Hàn Quốc tốt thứ ba trên thế giới (OECD, 2012).

Hàn Quốc thường xuyên có xếp hạng cao về toán học và văn học trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc tế, trong đó kỹ năng giải quyết vấn đề luôn được đánh giá rất cao (theo kết quả của PISA – chương trình đánh giá học sinh quốc tế của OECD). Mặc dù sinh viên Hàn Quốc thường được xếp hạng cao trong các bài kiểm tra so sánh quốc tế, hệ thống giáo dục của nước này đôi khi bị lên án vì tập trung nhấn mạnh vào việc học thụ động và học thuộc lòng. Hệ thống giáo dục của Hàn Quốc được được đánh giá là tương đối khắt khe và có xu hướng rập khuôn hơn hệ thống giáo dục ở hầu hết các nước phương Tây. Ngoài ra, các trường tư thục thường có mức thu học phí cao và đây là một vấn đề lớn của xã hội.

  1. Chiến lược và các chính sách phát triển nguồn nhân lực quốc gia của Hàn Quốc

3.1. Chiến lược định hướng tổng thể về phát triển nguồn nhân lực quốc gia theo từng giai đoạn

Chính sách giáo dục được xây dựng phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế. Đây là nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của quốc gia này. Năm 1950, Chính phủ Hàn Quốc chủ trương xóa mù chữ cho toàn dân. Những năm sau đó, hệ thống giáo dục dần được đẩy mạnh như: phát triển giáo dục hướng nghiệp trong các trường trung học (năm 1960); các trường dạy nghề kỹ thuật (năm 1970); đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và giáo dục trên lĩnh vực khoa học cơ bản và công nghệ, nâng cao chất lượng giáo dục và học suốt đời. Năm 1992, Hàn Quốc thực hiện cải cách giáo dục với mục tiêu tái cấu trúc hệ thống giáo dục hiện có thành một hệ thống giáo dục mới, bảo đảm cho người dân được học suốt đời. Tháng 12/2001, Chính phủ Hàn Quốc công bố Chiến lược quốc gia lần thứ nhất về phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2001-2005. Tiếp đó, Chiến lược quốc gia lần thứ hai về phát triển nguồn nhân lực thời kỳ 2006-2010 được xây dựng và thực hiện hiệu quả.

3.1.1. Chiến lược xóa mù chữ toàn dân (1950-1960): Kể từ sau Thế chiến thứ hai kết thúc, Bán đảo Hàn Quốc được giải phóng, thoát khỏi ách thống trị của Nhật sau hơn 35 năm. Tuy nhiên, không lâu sau đó, thế giới bắt đầu đi vào thời kỳ chiến tranh lạnh, bán đảo Hàn bị chia cắt thành hai miền Nam-Bắc với hai chế độ chính trị xã hội đối lập nhau, người dân xứ Hàn đã phải trải qua những thử thách nặng nề bởi cuộc nội chiến (1950-1953). Nam Triều Tiên (Hàn Quốc) đã đồng nhất quan điểm phát triển với Mỹ và đã đạt được thỏa thuận tài trợ từ phía Mỹ khoảng 12 tỷ USD (gấp 6 lần so với GDP) vào thời điểm đó. Các chương trình xóa mù chữ toàn dân được Chính phủ Hàn Quốc ưu tiên thực hiện và coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công cuộc tái thiết đất nước và chuẩn bị yếu tố nguồn lực quan trọng cho sự phát triển của đất nước trong tương lai. Năm 1945 tỷ lệ mù chữ của Hàn Quốc là 97%, đến năm 1960 tỷ lệ này chỉ còn 20%, và đến 2017 chỉ còn dưới 2%. Hệ thống các trường học được Hàn Quốc đầu tư và khuyến khích toàn dân tham gia học tập để xây dựng và kiến thiết đất nước, thậm chí còn có những khẩu hiệu “Ngủ 5 giờ/đêm là thất bại, ngủ 4 giờ/đêm là thành công”.

3.1.2. Chiến lược giáo dục hướng nghiệp (1970-1990): trong giai đoạn này, bằng cấp được xã hội Hàn Quốc coi trọng và việc công dân học tập để tìm kiếm một công việc là một yêu cầu bắt buộc. Theo đó, năm 1967, đạo luật đào tạo nghề ra đời đã khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề nhằm tạo ra lực lượng lao động có kỹ năng mà các doanh nghiệp có nhu cầu. Các trường và trung tâm dạy nghề phát triển nhanh và mở rộng trong những năm 1970. Đồng thời, Hàn Quốc tăng cường hợp tác với các nước Mỹ, Đức, Nhật, Bỉ... trong đào tạo giáo viên hướng dẫn nhằm tạo “khung” hệ thống đào tạo nghề. Thời kỳ 1980-1990, nền công nghiệp hướng vào phát triển các ngành công nghiệp dựa vào thông tin, tri thức và công nghệ cao. Vì thế, đào tạo nghề tập trung vào đào tạo lao động kỹ thuật có trình độ cao.

3.1.3. Chiến lược giáo dục suốt đời (1992-2000): Bước sang thế kỷ XXI, nền giáo dục của Hàn Quốc đứng trước thách thức mới. Thế giới đang chuyển từ Thời đại công nghiệp sang Thời đại Công nghệ thông tin và nền kinh tế tri thức. Hàn Quốc phải đương đầu với hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997, qua đó tiến hành cải cách toàn diện nền kinh tế, trong đó có cải cách về lực lượng lao động. Nếu như trước kia lao động chăm chỉ và lương thấp là điều kiện quan trọng trong tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc thì đến nay đã trở nên lỗi thời và thậm chí còn gây cản trở đối với nền kinh tế. Yêu cầu về nguồn nhân lực của Hàn Quốc đã thay đổi từ những công nhân được tiêu chuẩn hoá hàng loạt sang các chuyên gia sáng tạo đa dạng. Cuộc cải cách giáo dục mới nhằm mục tiêu đào tạo ra nguồn nhân lực thích hợp, xây dựng xã hội thông tin, tăng cường năng lực cạnh tranh của Hàn Quốc trong thế kỷ XXI. Mức đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D) của Hàn Quốc năm 2000 vào loại cao, chiếm 2,8% GDP so với ở Mỹ 2,6%, Pháp 2,3%, Singapore 1,1% và Malaysia 0,2%. Hàn Quốc cần có một đội ngũ lao động được đào tạo quy mô làm nền tảng cho các ngành công nghiệp mới, trong đó việc đầu tư cho các nguồn nhân lực tài năng, có kỹ năng và sáng tạo phải được ưu tiên hàng đầu.

Từ những năm 1990 trở đi, Chính phủ Hàn Quốc có định hướng chiến lược phát triển 10 ngành công nghiệp chủ lực làm động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, các hoạt động nghiên cứu và giáo dục trên lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ, nâng cao chất lượng giáo dục và học tập suốt đời, được đẩy mạnh. Năm 1992, Hàn Quốc thực hiện cải cách giáo dục với mục tiêu tái cấu trúc hệ thống giáo dục hiện có thành hệ thống giáo dục mới bảo đảm cho người dân được học tập suốt đời.

3.1.4. Chiến lược giáo dục quốc gia lần thứ Nhất (2001-2005) và Chiến lược giáo dục quốc gia lần thứ Hai (2006-2010): Phát triển nguồn nhân lực

Nội dung chính của các chiến lược này đề cập tới sự tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp, trường đại học và các cơ sở nghiên cứu; nâng cao trình độ sử dụng và quản lý nguồn nhân lực, nâng cao tính chuyên nghiệp của nguồn nhân lực trong khu vực công; xây dựng hệ thống đánh giá và quản lý kiến thức, kỹ năng và công việc; xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin cho phát triển nguồn nhân lực; xây dựng và phát triển thị trường tri thức...Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp Hàn Quốc là một trong những nội dung quan trọng của đào tạo nghề được đầu tư và phát triển tại Hàn Quốc. Việc hỗ trợ cho doanh nghiệp của Hàn Quốc khi doanh nghiệp đào tạo nghề cho lao động được lấy trong chi phí bảo hiểm lao động. Để nhận chi phí đào tạo này thì doanh nghiệp Hàn Quốc phải đăng ký và mua bảo hiểm lao động. Chi phí này được hỗ trợ cho việc chí phí đào tạo, ăn ở, đi lại. Quy trình hỗ trợ đào tạo doanh nghiệp từ khi bắt đầu đăng ký đến nhận hỗ trợ đều được đăng ký trên internet. Doanh nghiệp cũng như bên hỗ trợ đào tạo sẽ nên lịch trình nội dung, mục đào tạo gửi lên Cơ quan phát triển nguồn nhân lực (HRD) để đăng ký. Cơ quan HRD sẽ kiểm tra, xem chương trình có khả thi để đồng ý hay không đồng ý. Với trường hợp cho phép doanh nghiệp tiến hành đào tạo, doanh nghiệp sẽ phải nộp báo cáo về tiến độ đào tạo cũng như hỗ trợ tài chính cho quá trình đào tạo và trình lên các cơ quan liên ngành. Phía HRD sẽ nhận báo cáo của doanh nghiệp và sẽ giám sát quá trình đào tạo xem có phù hợp với người lao động không. Hiện nay, hỗ trợ đào tạo năng lực nghề cho doanh nghiệp đang chiếm tỷ trọng ngân sách lớn nhất của HRD, khoảng 3.000 tỷ Won (Bộ LĐ-TB&XH, 2018). Cách thức đào tạo phong phú, đa dạng từ đào tạo trực tiếp đến đào tạo từ xa. Hiện nay, hình thức đào tạo trực tiếp đang có xu hướng giảm và thay vào đó là đào tạo từ xa thông qua internet. Đây là hình thức đào tạo phù hợp với xu hướng nhằm tiếp kiệm thời gian, tiền bạc. Hình thức đào tạo này chủ yếu đào tạo quy trình nghiệp vụ (hành chính). Về kế hoạch đào tạo nghề cho doanh nghiệp, Chính phủ Hàn Quốc sẽ tập trung ưu tiên đào tạo cho doanh nghiệp vừa và nhỏ với tỷ lệ 100% cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, 60% cho doanh nghiệp lớn và 40% cho doanh nghiệp trên 1.000 người (Bộ LĐ-TB&XH, 2018).

3.1.5. Chiến lược giáo dục thông minh (2011-2015): Giáo dục thông minh là một dạng đổi mới giáo dục, bởi nó thay đổi khuôn khổ giáo dục hiện hành. Vì thế, cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, không để xảy ra những hiệu ứng phụ tiêu cực. Mục đích của giáo dục không chỉ là cung cấp kiến thức. Cần đặc biệt chú ý việc xây dựng tính cách và phát triển hành vi ứng xử xã hội. Chính phủ cũng cần nỗ lực hết sức đưa ra các biện pháp hỗ trợ để giải quyết những vấn đề có thể nảy sinh trong quá trình xây dựng nền giáo dục thông minh.

Trong giai đoạn này, Bộ Giáo dục Hàn Quốc bảo đảm đầu tư khoảng 2 tỷ USD để xây dựng hạ tầng cần thiết và mua máy tính cũng như các thiết bị tiên tiến khác. Sách giáo khoa in và các tài liệu giảng dạy khác sẽ được số hóa đối với bậc tiểu học vào năm 2014 và bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông vào năm 2015. Như vậy, kể từ năm 2015, sách giáo khoa in sẽ không còn tồn tại trong các trường tiểu học và trung học ở Hàn Quốc. Chiến lược giáo dục "thông minh" ở Hàn Quốc nhằm nâng cao tính cạnh tranh, đưa giáo dục Hàn Quốc vào tốp 10 nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới vào năm 2015 và tốp ba trên thế giới vào năm 2025. Để thực hiện mục tiêu này, nền giáo dục thông minh sẽ tập trung vào "hướng dẫn tự học" và "học tập theo yêu cầu". Đây là một sự chuyển hướng từ việc truyền tải kiến thức tiêu chuẩn theo cách truyền thống trên diện rộng nhắm tới đối tượng học sinh mức trung bình. Hệ thống giáo dục thông minh sẽ hướng dẫn cho các em tự học, phù hợp nhu cầu của từng học sinh. Học sinh sẽ có thêm cơ hội tham dự nhiều lớp học khác nhau theo sở thích và năng khiếu của từng em. Sách giáo khoa số là một dạng "nội dung" sẽ được lưu trong máy chủ internet thông qua hệ thống điện toán đám mây và được truy cập bằng máy tính cá nhân, máy tính bảng, điện thoại thông minh và Tivi thông minh cùng nhiều thiết bị khác. Điều này có nghĩa là học sinh có thể truy cập bất cứ những gì các em muốn học và vào bất cứ lúc nào. Cách này sẽ giúp cải thiện đáng kể hiệu quả học tập của các em. Việc số hóa sách giáo khoa sẽ giúp giảm chi phí liên quan giáo dục của các hộ gia đình và giảm nhu cầu học thêm.

3.1.6. Chiến lược giáo dục kỷ nguyên 4.0 (2016 trở đi):

Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) Klaus Schwab (2017) từng đưa ra nhận định về sự thiếu vắng của một dòng chảy chung và liền mạch để tích cực dẫn dắt thế giới đi qua những cơ hội và thách thức do cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) mang đến; Trong lúc đó, năng lực lãnh đạo và sự hiểu biết của chúng ta liên quan đến các xu hướng trong nhiều lĩnh vực hiện vẫn còn ở mức thấp so với yêu cầu cần xét lại của cả hệ thống kinh tế, xã hội, chính trị để có thể thích nghi với những thay đổi mang tính nền tảng. Vì vậy, Hàn Quốc cũng không phải là một ngoại lệ, họ đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nguồn nhân lực để tiếp cận và làm chủ với cuộc CMCN 4.0.

Hàn Quốc cũng đã tiến hành đánh giá về năng lực cạnh tranh của quốc gia trong CMCN 4.0 một cách thực chất, theo đó Hiệp hội Ngoại thương Hàn Quốc (KITA) thực hiện đã xếp nước này đứng thứ 21, đây là mức khá thấp so với trình độ phát triển chung, nhất là trong lĩnh vực Công nghệ thông tin, vốn là thế mạnh của Hàn Quốc. Chính vì vậy, Hàn Quốc hiện đang rất nỗ lực thu hút sự chú ý của người dân và doanh nghiệp đến với cuộc CMCN 4.0. Bên cạnh đó, việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho cuộc CMCN 4.0 cũng đã được Chính phủ Hàn Quốc xem xét và nhìn nhận một cách nghiêm túc trên cơ sở sự hợp tác chặt chẽ giữa người học, doanh nghiệp và toàn xã hội.

3.2. Các biện pháp chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao mang đẳng cấp quốc tế

3.2.1. Định hướng tổng thể phát triển nguồn nhân lực Hàn Quốc

- Chính sách pháp luật về phát triển nguồn nhân lực

Sau khi ban hành luật đào tạo nghề vào năm 1967, hệ thống dạy nghề ở Hàn Quốc đã trở thành hệ thống phụ giúp cho hệ thống giáo dục chính thống trong việc đào tạo người có kĩ năng. Điều luật này quy định các cơ sở đào tạo nghề gồm 3 loại: tổ chức nghề cộng đồng được điều hành bởi nhà nước và chính quyền trung ương; tổ chức nghề phi lợi nhuận được điều hành bởi bộ lao động; và các trường dạy nghề thông thường được thực hiện bởi chính các doanh nghiệp tư nhân. Một quy định quan trọng đó là điều luật quy định tất cả các doanh nghiệp trên 500 nhân công phải cung cấp chương trình đào tạo thường xuyên.

Để tăng tính hiệu quả của điều luật, năm 1997, một điều luật khác về tăng cường đào tạo đã được thông qua bởi các nhà quản lí. Điều luật số 5474 với mục tiêu nâng cao nghề nghiệp của người lao động, nâng cao vị thế, tăng năng suất lao động bằng cách giúp người lao động phát triển và sử dụng khả năng để đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Điều luật này đặt ra tiêu chuẩn rằng, các khóa đào tạo phải đi đôi với giáo dục chính thống và gắn với ngành công nghiệp trọng điểm. Hơn nữa, điều luật cũng quy định nếu bất cứ cá nhân hoặc doanh nghiệp nào có thể phát triển trường đào tạo chất lượng sẽ được Bộ Lao động cung cấp các chi phí và khoản tín dụng. Như vậy, chính sách này không chỉ giúp các tổ chức hoặc doanh nghiệp lớn mà còn khuyến khích các cá nhân mở các chương trình đào tạo. Chính những khuyến khích bằng các điều luật này đã là nguồn cung cấp nhân lực kĩ thuật cao cho các doanh nghiệp của cả nhà nước và tư nhân trong quá khứ và những năm gần đây.

- Tổ chức chuyên trách về nhân lực ở Trung ương

Để nâng cao tầm quan trọng của nguồn nhân lực, Chính phủ Hàn Quốc đã tổ chức một số đơn vị chuyên trách về nhân lực. Trước hết, Bộ Giáo dục được phát triển trong 3 giai đoạn: giai đoạn quản lí hành chính, giai đoạn cải cách và giai đoạn nâng cấp. Trong thời kỳ đầu, Bộ quyết định phần lớn các công việc về giáo dục như số lượng nhập học, chi tiêu tài chính và cơ cấu của các trường đại học. Chính vì vậy, có nhiều quan điểm cho rằng, các đại học thành viên không có nhiều tự do để lựa chọn những sinh viên đầu vào và các kì thi viết và thi đầu vào được ấn định bởi Bộ giáo dục. Hơn nữa, không có nhiều cơ hội cho các tổ chức để thành lập các trường đại học do cách quản lí và tính nguyên tắc từ bộ. Tuy vậy, kể từ năm 1991, Bộ Giáo dục đã trao quyền thêm cho các trường đại học trong việc kế hoạch chi tiêu và ra quyết định hành chính, điều này tạo điều kiện hơn cho các trường đại học trong việc theo đuổi các chuyên ngành mũi nhọn chất lượng cao. Bên cạnh đó, quan chức địa phương không được phép can thiệp vào hệ thống giáo dục ở địa phương nhằm đảm bảo hệ thống giáo dục mang tính độc lập so với hệ thống quản lí hành chính.

-  Chính sách đào tạo nhân tài ở Hàn Quốc

Hàn Quốc đã xây dựng chương trình giáo dục cho người tài và người đặc biệt, chương trình cho giáo dục người tài gồm hai phần: giáo dục phổ thông và giáo dục với chương trình đặc biệt. Ở Hàn Quốc, trường học đầu tiên cho giáo dục nhân tài được thành lập vào năm 1983 ở bậc trung học phổ thông. Trường học này tập trung vào những bài giảng có trình độ tiên tiến. Tuy nhiên, thời kỳ đầu chỉ bao gồm các khoa như ngoại ngữ, nghệ thuật và thể thao. Hơn nữa, các trường học này được thành lập theo Luật Giáo dục thông thường nên sự hoạt động vẫn chưa đủ hiệu quả và năng động để đáp ứng những yêu cầu của học sinh tài năng.

Sau khủng hoảng kinh tế tại nước này năm 1997, Quốc hội Hàn Quốc đã nhanh chóng ban hành Luật Giáo dục nhân tài. Luật này đề cập đến ba loại hình đào tạo nhân tài gồm: trường đặc biệt cho nhân tài, trung tâm giáo dục người tài và những lớp đặc biệt cho học sinh đặc biệt ở các trường học thông thường. Luật yêu cầu chính quyền trung ương và địa phương phải lập kế hoạch, thực hiện và trợ giúp một cách hệ thống và liên tục đối với giáo dục nhân tài. Mỗi trường học có sự tự quản về chính sách giáo dục nhân tài và quan trọng hơn, mỗi một bộ, ngành bên cạnh Bộ Giáo dục có thể xây dựng và tổ chức các trường giáo dục nhân tài. Để giáo dục nhân tài hoạt động hiệu quả, theo báo cáo của Bộ Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực năm 2004, cơ sở luật pháp cho việc thực hiện giáo dục nhân tài theo sau điều luật trên được ban hành vào tháng 1 năm 2000. Điều khoản luật mới khuyến khích các trường thành lập nhiều nhóm nguồn nhân lực chất lượng cao nhưng số lượng của mỗi nhóm nên ở con số tối thiểu. Các lớp học cho sinh viên đặc biệt và các trường học có trách nhiệm tìm ra những sinh viên đặc biệt và tiến hành cung cấp nhiều hoạt động giáo dục khác nhau cho những học viên tài năng.

Vào tháng 11 năm 2002, một kế hoạch khác ra đời nhằm thúc đẩy giáo dục nhân tài do Hội đồng Phát triển Nguồn nhân lực ban hành. Kế hoạch này đưa ra các mục tiêu rõ ràng và mang tính hiện thực cao. Hơn nữa, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng tiến hành mở các lớp và trung tâm giáo dục khoa học cho những học viên tài năng và những trung tâm này cũng giống như các phòng thí nghiệm đang hoạt động trong các trường đại học. Ở các trung tâm khoa học này có sự khác nhau giữa các khu vực trong việc tuyển chọn học viên không theo kì thi tuyển mà bằng việc xem xét kết quả học tập ở các cấp học bên dưới, thông qua phỏng vấn và những trắc nghiệm khác nhau. Điểm số đầu vào được đánh giá cao dựa trên phỏng vấn khác biệt, dựa trên thi nói và khả năng trong các cuộc thi mà thí sinh đã dự thi. Đối với các học sinh ở bậc trung học phổ thông, sau khi kết thúc các lớp học khoa học, họ có thể vào thẳng năm thứ hai bậc đại học của Viện Khoa học và Công nghệ Cao cấp Hàn Quốc (KAIST). Hội đồng tuyển chọn bao gồm các giáo sư trong Viện KAIST sẽ chọn những học viên xuất sắc nhất và những sinh viên mới này sẽ được học các chương trình học nâng cao với nhiều nội dung đủ để đạt trình độ cao và hiện đại khi tốt nghiệp

- Ngân sách đầu tư cho giáo dục

Sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Hàn Quốc cũng đã đóng góp đáng kể vào giá trị mà người Hàn Quốc đặt vào giáo dục đại học. Trong 25 năm qua, quốc gia này đã nhận ra tỷ lệ lợi nhuận rất cao từ đầu tư giáo dục, dao động khoảng 10%. Việc đầu tư cho giáo dục một mặt tạo công ăn việc làm với thu nhập cao hơn cho người học và giá trị tích lũy càng tăng theo thời gian. Theo thống kê của Bộ Giáo dục Hàn Quốc, năm 2007, sinh viên tốt nghiệp đại học có thu nhập gấp 2,5 lần so với các đồng nghiệp có bằng trung học cơ sở. Với sự nghiệp công nghiệp hóa nhanh chóng của Hàn Quốc, thị trường lao động được phân chia theo các lĩnh vực giáo dục. Giáo dục đại học được coi là điều thiết yếu để tham gia vào thị trường lao động chính vì đây là lực lượng lao động có trình độ cao có thể đảm nhận được các vị trí then chốt trong nền kinh tế Hàn Quốc.

Từ quan điểm đó, Bộ Giáo dục có ngân sách 29 tỷ đô la Mỹ, gấp sáu lần so với năm 1990, con số này chiếm khoảng 20% chi tiêu của chính phủ trung ương. Chi ngân sách giáo dục không ngừng tăng lên, đến năm 2017, chi giáo dục đạt con số 4.1% GDP. Giáo viên được coi là một phần quan trọng của khoản đầu tư đó, thống kê của OECD xếp thứ 10 Hàn Quốc trong bảng xếp hạng về mức lương giáo viên, đến năm 2005 lương giáo viên đã được xếp thứ 3 trong các nghề tại Hàn Quốc.

3.2.2. Đổi mới hệ thống giáo dục, chương trình đào tạo và nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên

- Đổi mới hệ thống giáo dục

Sau một thời gian hiệu chỉnh hệ thống giáo dục của Hàn Quốc cho tới nay đã thống nhất theo năm và các cấp học bao gồm: Bậc tiểu học (6 năm), Bậc Trung học cơ sở (3 năm), bậc Trung học Phổ thông (3 năm), Bậc Đại học (4 năm), Sau đại học (2-3 năm đối với Thạc sĩ, 2-4 năm đối với Tiến sĩ).

- Chương trình đào tạo của Hàn Quốc

+ Triết lý và quan điểm giáo dục

Tư tưởng chỉ đạo xây dựng Chương trình giáo dục Hàn Quốc năm 2007 được xác định cũng nhằm hướng đến con người được giáo dục tốt nhất: “Giáo dục Hàn Quốc nhằm giúp mỗi công dân phát triển cá tính và những kĩ năng cần thiết cho cuộc sống của một công dân độc lập dưới ánh sáng của tư tưởng nhân đạo và tinh thần trách nhiệm vì sự phồn thịnh của đất nước và nhân loại”. Để phát triển con người được giáo dục với chất lượng cao Chương trình nêu lên các tiêu chí sau: (1) Phát triển cá tính của mỗi người và chăm sóc tất cả mọi người; (2) Giúp thể hiện năng lực sáng tạo và ứng dụng kiến thức, kĩ năng; (3) Có một nền tảng tri thức rộng để học tiếp và định hướng nghề nghiệp; (4) Sáng tạo những giá trị mới trên cơ sở các giá trị truyền thống dân tộc; (5) Nhiệt tình cải tạo cộng đồng như một công dân.

+ Mục tiêu giáo dục của Hàn Quốc

Chương trình năm 2007 của Hàn Quốc ghi rõ: “Mục tiêu của giáo dục Hàn Quốc nhằm giúp mỗi công dân phát triển cá tính và những kĩ năng cần thiết cho cuộc sống của một công dân độc lập dưới ánh sáng của tư tưởng nhân đạo và tinh thần trách nhiệm vì sự phồn thịnh của đất nước và nhân loại”.

- Sách giáo khoa ở Hàn Quốc

Ở Hàn Quốc, từ năm 1995 nước này bắt đầu xóa bỏ chính sách độc quyền về sách giáo khoa. Theo đó, sách giáo khoa gồm 2 loại:

Loại thứ nhất là sách giáo khao quốc gia do Bộ Giáo dục và Phát triển nguồn nhân lực Hàn Quốc (MOEHRD) tổ chức biên soạn, bao gồm tất cả sách giáo khoa mầm non và tiểu học, sách Quốc ngữ (Tiếng Hàn), Quốc sử (Lịch sử Hàn Quốc), Đạo đức cho các lớp còn lại.

Loại thứ hai là sách giáo khoa do các nhà xuất bản tư nhân tổ chức biên soạn, MOEHRD thẩm định, bao gồm sách giáo khoa dùng cho các môn học khác ở trung học. Ở THCS, có 32 bộ sách môn Toán, 9 bộ sách môn Khoa học và 10 bộ sách môn Xã hội. Ở THPT, có 28 bộ sách môn Toán (trong đó có 16 bộ cho lớp 10 và 12 bộ cho lớp 11 và 12), 8 bộ sách môn Hoá, 9 bộ sách môn Vật lý, 6 bộ sách môn Lịch sử Hàn Quốc hiện đại, 8 bộ sách môn Sinh học, 8 bộ sách môn Địa lý Hàn Quốc, 8 bộ sách môn Xã hội, 11 bộ sách môn Khoa học, v.v…

Từ năm 2009, các nhà xuất bản tư nhân được phép tổ chức biên soạn và phát hành sách giáo khoa THCS và THPT kể cả các môn Quốc ngữ, Quốc sử và Đạo đức. Tất cả sách giáo khoa tiểu học sẽ do MOEHRD tổ chức biên soạn, ngoại trừ sách giáo khoa môn Thể dục, Âm nhạc, Nữ công gia chánh và Tiếng Anh dành cho các nhà xuất bản tư nhân, MOEHRD chỉ kiểm tra và sửa đổi những chỗ cần thiết. Các trường học có thể lựa chọn một số sách không qua thẩm định của nhà nước, trừ sách giáo khoa các môn Quốc ngữ, Đạo đức, Xã hội, Toán, Khoa học, Kỹ thuật, Âm nhạc, Thể dục. Thậm chí MOEHRD khuyến khích các trường tự biên soạn sách giáo khoa để càng ngày càng có thêm nhiều người tham gia vào việc biên soạn những cuốn sách có chất lượng cao cho học sinh.

Từ năm 2015, sách giáo khoa bằng giấy có số lượng rất ít tại các trường tiểu học và trung học Hàn Quốc. Thay vào đó, tài liệu giáo khoa sẽ được chuyển tải dưới dạng kỹ thuật số. Học sinh chỉ cần học thông qua máy tính hay các thiết bị số khác. Bộ Giáo dục Hàn Quốc cho ra khoảng 2,4 tỷ USD (năm 2011) dùng đầu tư cho việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng cần thiết như mua máy tính cá nhân hay các thiết bị khác đáp ứng cho cuộc chuyển đổi trong thời gian từ 2011-2015. Đến hết năm 2014, sách giáo khoa, sách tham khảo, từ điển hay các tài liệu bằng giấy khác tại các trường tiểu học sẽ được số hoá hoàn toàn, quá trình này mở rộng sang học sinh cấp 2 và 3 trong năm tiếp theo.

- Đội ngũ giáo viên

Hàn Quốc có tỷ lệ cao hơn hầu hết các quốc gia OECD khác về độ tuổi giáo viên, trung bình dưới 40 tuổi và ở cả hai cấp tiểu học và trung học, đều được ổn định về giáo viên cả về số lượng và chất lượng. Giáo viên tiểu học tiềm năng phải hoàn thành chương trình giáo dục bốn năm và hoàn thành bài kiểm tra đầu vào. Hàn Quốc có thang lương theo độ dốc từ mức lương khởi điểm và mức lương ở mức cao nhất, với tỷ lệ ở mức cao nhất là 2,8 lần so với mức lương khởi điểm cho tất cả các cấp từ sơ cấp đến trung học phổ thông (so với tỷ lệ trung bình của OECD là 1,9 đối với tiểu học và trung học cơ sở và 1,8 cho trung học phổ thông). Hàn Quốc cũng đánh giá cao nghề dạy học và được coi là nghề có giá trị trong xã hội. Tỷ lệ 63,4% giáo viên nói rằng họ sẽ trở thành giáo viên nếu họ có thể quyết định lại (so với mức trung bình 77,6% của OECD).

  1. Năng lực, hiệu quả của nguồn nhân lực quốc gia và chất lượng giáo dục đào tạo

4.1. Hiệu quả của nguồn nhân lực quốc gia

- Năng suất lao động

Chỉ số năng suất lao động của Hàn Quốc có tốc độ tăng tương đối ổn định qua các năm, trong khoảng 4 năm gần đây, năng suất lao động đều vượt chỉ số trên 100, năm 2017 đạt 109.7 và 2018 đạt 109.2 điểm (tính đến hết tháng 7 năm 2018). Điều này khẳng định chất lượng nguồn nhân lực của Hàn Quốc rất ổn định và được bồi dưỡng qua các năm cả về kiến thức chuyên môn, trình độ tay nghề và kinh nghiệm quản lý. Việc đào tạo tại trường đại học, cao đẳng và đào tạo nghề của Hàn Quốc một mặt được tiến hành rất bài bản, mặt khác rất sát với thực tế công việc. Bên cạnh đó, đào tạo trong công việc cũng được các doanh nghiệp Hàn Quốc rất chú trọng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động mới hội nhập vào môi trường có thể thích nghi, làm quen và tiếp nhận được các công việc và vị trí đảm nhận. Tất cả những điều kiện trên đã tác động đến chỉ số năng suất lao động của Hàn Quốc trong suốt thời gian qua và đây cũng là chỉ số quan trọng giúp cho sự tăng trưởng của GDP và tăng thu nhập bình quân đầu người ở Hàn Quốc.

Hình 1. Chỉ số lao động Hàn Quốc qua các năm

Nguồn: Cơ quan kinh tế thương mại Hàn Quốc, năm 2018

Nhờ có năng suất lao động bình quân cao mà thu nhập của người lao động Hàn Quốc được chi trả phù hợp và tương xứng với mức độ cống hiến trong công việc mà họ bỏ ra. Bên cạnh đó, các chế độ và chính sách đãi ngộ phi lợi nhuận cũng được các doanh nghiệp Hàn Quốc quan tâm như chăm lo đời sống gia đình và thế hệ kế tiếp, tạo môi trường làm việc thuận lợi, chế độ đào tạo nâng cao tay nghề,…

- Chi phí lao động

Cùng với việc tăng năng suất lao động, chi phí lao động của Hàn Quốc lại có xu hướng giảm dần qua các năm, điều này lại càng tạo điều kiện cộng hưởng cho hiệu quả của lao động Hàn Quốc. Hệ số chi phí lao động liên tục giảm từ năm 2015 đến năm 2018, lần lượt là 131 xuống còn 96,5. Đặc biệt, năm 2017 và 2018 là hai năm có chỉ số chi phí lao động giảm sâu so với các năm còn lại. Một mặt điều này đến từ sự cải tiến phương pháp quản trị nguồn nhân lực một mặt cũng có được từ hiệu quả của công tác đào tạo nguồn nhân lực.

Hình 2. Chi phí lao động Hàn Quốc qua các năm

Nguồn: Cơ quan kinh tế thương mại Hàn Quốc, năm 2018

Chi phí đào tạo lại lao động ở Hàn Quốc giảm đáng kể do hiệu quả của công tác đào tạo ở các trường đại học, cao đăng và đào tạo nghề mang lại. Bên cạnh đó, số lượng lao động phổ thông (chưa tham gia đào tạo) ở Hàn Quốc là không cao nên chi phí để đào tạo mới từ đầu đối với lao động này là rất thấp. Mặt khác, thị trường lao động của Hàn Quốc cũng được tổ chức một cách có hiệu quả nên việc gặp nhau giữa cung và cầu lao động rất thuận lợi, đảm bảo người tìm việc và việc tìm người luôn khớp và phù hợp với năng lực và yêu cầu. Như vậy, có thể thấy hiệu suất của nguồn nhân lực của Hàn Quốc là rất cao, một mặt năng suất lao động tăng cao, bên cạnh đó, chi phí lao động lại giảm xuống tương ứng, tạo điều kiện kép giúp cải thiện các yếu tố nguồn lực đầu vào trong quá trình sản xuất kinh doanh của Hàn Quốc.

- Số người lao động

Tỷ lệ người lao động của Hàn Quốc so với dân số ở mức độ tương đối cao so với các nước OECD, tỷ lệ hiện tại đạt 61.4% (khoảng 31.59 triệu người). Tuy nhiên, tỷ lệ lao động của Hàn Quốc cũng đang có xu hướng giảm dần và dân số có xu hướng già hóa do tỷ lệ người cao tuổi và đến tuổi nghỉ hưu của Hàn Quốc tương đối cao, mặc dù độ tuổi nghỉ hưu của Hàn Quốc cũng đã tăng dần qua các năm. Theo đó, độ tuổi nghỉ hưu bình quân trong năm 2017 tại Hàn Quốc đạt 61,1 tuổi. Năm 2013, Chính phủ đã tiến hành sửa đổi Luật khuyến khích tuyển dụng người cao tuổi, quy định độ tuổi nghỉ hưu của người lao động là trên 60 tuổi. Ngoài ra, kể từ năm 2016, Chính phủ đã bắt đầu mở rộng phạm vi áp dụng quy định trên cho các doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước có trên 300 nhân công trở lên. Kết quả điều tra cho thấy độ tuổi nghỉ hưu bình quân của người lao động tại các doanh nghiệp trên đang cho thấy xu hướng tăng theo từng năm. Cụ thể, độ tuổi nghỉ hưu bình quân trong năm 2013 là 58,8 tuổi, năm 2014 là 59,4 tuổi, năm 2015 là 59,8 tuổi và năm 2016 tăng lên 60,3 tuổi.

Bảng 1. Thống kê về lao động năm 2018 của Hàn Quốc

Tỷ lệ lao động (năm 2018)

Cuối kỳ

Đầu kỳ

Cao nhất

Thấp nhất

Đơn vị tính

Tỷ lệ lao động làm việc

61,4

61,2

61,6

56,1

%

Dân số

51,45

51,25

51,45

25,01

triệu người

Số người lao động

31,5903

31,365

31,6932

14,03061

triệu người

Nguồn: Tổng hợp từ Tradingeconomics.com

Với mức độ già hóa dân số và tỷ lệ sinh của Hàn Quốc cũng rất thấp sẽ dẫn đến nguy cơ thiếu hụt lao động ở Hàn Quốc trong thời gian tới buộc quốc gia này phải có chiến lược đối với việc thu hút nguồn nhân lực bên ngoài Hàn Quốc hoặc các hoạt động đầu tư sang các nước có nguồn cung lao động dồi dào và thậm chí cả chính sách thu hút nhân tài từ các nước thông qua chương trình học bổng du học và chính sách nhập cư đối với lực lượng lao động đó.

- Tỷ lệ lao động thất nghiệp

Hàn Quốc là một quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp tương đối thấp so với các nước OECD với tỷ lệ trung bình khoàng 3%. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp cũng cần phải tính đến các độ tuổi khác nhau. Mặc dù, tỷ lệ lao động thất nghiệp của Hàn Quốc không cao nhưng tỷ lệ lao động trẻ thất nghiệp lại là con số đáng quan tâm.

Hình 3. Tỷ lệ lao động thất nghiệp của Hàn Quốc từ 2013-2017

Nguồn: Cơ quan kinh tế thương mại Hàn Quốc, 2018

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Hàn Quốc, trong tháng 7/2018 những người thất nghiệp ở độ tuổi 25-34 đạt 338.000 người (chiếm 6,4%), mức cao kỷ lục trong 19 năm qua, chỉ sau kỷ lục được ghi vào năm 1999 với số người thất nghiệp là 434.000 người (chiếm 7,2%). Tỷ lệ thất nghiệp ở độ tuổi này cũng tăng liên tục trong những năm gần đây. Tháng 7/2014, số người thất nghiệp trong độ tuổi này đạt 305.000 người (chiếm 5,5%), sau đó giảm vào năm 2015 xuống còn 285.000 người (5,2%). Tuy nhiên, số người thất nghiệp trong độ tuổi này tăng mạnh lên 319.000 người (chiếm 6,0%) vào tháng 7/2016, 327.000 người (6,3%) vào tháng 7/2017 và tăng kỷ lục 434.000 người vào năm nay. 

- Mức lương

Hàn Quốc được đánh giá là quốc gia có GDP tăng trưởng cao và ổn định, nhờ sự khai thác tốt các yếu tố nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực mà năng suất lao động của Hàn Quốc liên tục tăng lên. Chính vì vậy, mức lương của lao động Hàn Quốc đang được trả với mức cao so với các nước phát triển ở Châu Á. Từ năm 2010 đến 2016, lương bình quân của Hàn Quốc luôn đạt ở mức trên 31.000 USD và tăng tương đối ổn định đến ngưỡng 32.399 USD vào năm 2016 với tốc độ tăng khoảng 4%/năm.

Hình 4. Lương trung bình của lao động Hàn Quốc qua các năm

Nguồn: https://www.statista.com/statistics/557759/south-korea-average-annual-wage/

4.2. Năng lực nguồn nhân lực của Hàn Quốc

- Về trình độ và kiến thức

Theo thống kê của OECD, tỷ lệ những người độ tuổi 25-34 tốt nghiệp phổ thông lên tới 98% trong khi đó mức trung bình của OECD là 84%. Còn đối với tỷ lệ ở độ tuổi này theo học đại học là 69% cao hơn mức 42% của OECD. Điều này khẳng định trình độ đại học của lao động Hàn Quốc hiện tại là rất cao ở tất cả các lĩnh vực ngành nghề và được định hướng rất tốt trong việc chọn lựa các ngành nghề lĩnh vực theo học ngay khi còn ở bậc học phổ thông.

Tỷ lệ tốt nghiệp ở trình độ tiến sĩ là 1,6%, xung quanh mức trung bình của OECD. Hàn Quốc sở hữu một tỷ lệ lớn sinh viên tốt nghiệp đại học trong lĩnh vực kỹ thuật, sản xuất và xây dựng so với mức trung bình của OECD. Tuy nhiên, phí bảo hiểm thu nhập cho những người có trình độ giáo dục đại học thấp hơn mức trung bình của OECD. Lao động có trình độ giáo dục đại học ở Hàn Quốc kiếm được việc làm nhiều hơn 38% so với những người có trình độ học vấn trung học phổ thông năm 2014 (so với mức thu nhập trung bình của OECD là 55%) và 37% của tất cả những người trưởng thành có trình độ đại học trong độ tuổi 25-64  bao gồm già nữa là phụ nữ, không có thu nhập trong năm 2014 - tỷ lệ cao nhất trong OECD.

Hình 5. Lao động Hàn Quốc tốt nghiệp đại học

Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo của OECD, 2016

- Chỉ số nguồn nhân lực Hàn Quốc

Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB đã công bố kết quả phát triển Chỉ số nguồn nhân lực (HCI- Human Capital Index). Ngân hàng thế giới lần đầu tiên đo lường về Chỉ số nguồn nhân lực của 157 quốc gia trên toàn thế giới, một phần trong dự án nguồn nhân lực của WB.

Chỉ số nguồn nhân lực là chỉ số phản ánh tình trạng y tế, giáo dục của một quốc gia, đo lường tổng nguồn nhân lực của những trẻ em sinh ra hôm nay cho tới năm 18 tuổi. Đây còn là một chỉ số phản ánh năng suất trong tương lai của đứa trẻ vừa ra đời. Chỉ số này có giá trị từ 0 tới 1, so sánh với khi một đứa trẻ được hưởng ưu đãi về giáo dục và y tế toàn diện. Chỉ số này đo lường về tỷ lệ sống sót của trẻ cho tới 5 năm tuổi, thời gian học tập dự kiến, thành tích học tập, tỷ lệ sống sót của người trưởng thành tới năm 60 tuổi, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị khuyết tật.

Bảng 2. Chỉ số nguồn nhân lực của Hàn Quốc

 

Xác suất sống sót đến 5 tuổi

Năm học dự kiến

Điểm kiểm tra hài hòa

Năm học điều chỉnh

Trẻ em dưới 5 tuổi không bị còi cọc

Tỷ lệ sống của người lớn

Chỉ số vốn con người (ngưỡng thấp)

Chỉ số vốn con ngường

Chỉ số vốn con người (ngưỡng cao)

Nam

1,00

13,6

560

12,1

-

0,92

0,79

0,81

0,84

Nam và Nữ

1,00

13,6

563

12,2

0,98

0,94

0,83

0,84

0,86

Nữ

1,00

13,6

567

12,3

-

0,96

0,83

0,85

0,87

Nguồn: Báo cáo của IMF và WB, 2018

Chỉ số nguồn nhân lực của Hàn Quốc đạt 0,84 điểm, đứng thứ hai trong số 157 quốc gia. Có nghĩa là trẻ em sinh ra tại Hàn Quốc có năng suất bằng 84% so với trẻ em sinh ra hôm nay được hưởng ưu đãi toàn diện về y tế, sức khỏe. Chỉ số nguồn nhân lực của bé gái tại Hàn Quốc là 0,85 điểm, cao hơn bé trai (0,81 điểm).

  1. Các giải pháp vận dụng bài học kinh nghiệp về phát triển nguồn nhân lực quốc gia của Hàn Quốc

5.1. Về tầm nhìn của người lãnh đạo, tính hiệu quả và minh bạch của Chính phủ

Thứ nhất, cần phải xác định vấn đề nhân lực là yếu tố nguồn lực chủ chốt và quan trọng của mọi hoạt động xã hội. Suy cho cùng thì mọi hoạt động xã hội đều xuất phát từ con người và cũng phục vụ cho con người là đầu tiên nên đây là yếu tố cần đặt lên hàng đầu trong tất cả các yếu tố nguồn lực khác như vốn, công nghệ, tài nguyên, thông tin hay các yếu tố nguồn lực khác.

Thứ hai, đối tượng và các bên tham gia phát triển nguồn nhân lực không chỉ có cơ quan tham gia vào công tác đào tạo (Bộ Giáo dục) mà còn có nhiều cơ quan khác nữa, trong đó doanh nghiệp là đơn vị tiếp nhận và sử dụng nguồn nhân lực trực tiếp và quan trọng. Chính vì vậy, khi xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực, Việt Nam không thể tách các chủ thể này ra trong quá trình hoạch định chiến lược mà cần cho doanh nghiệp tham gia vào trực tiếp và cụ thể hơn các nội dung chiến lược.

Thứ ba, để thực hiện thành công nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực quốc gia trước hết lãnh đạo ngành giáo dục và đào tạo cần thành lập Ủy ban phát triển nguồn nhân lực quốc gia của Việt Nam. Thực chất trong những năm vừa qua, Hàn Quốc đã thực hiện thành lập Ủy ban phát triển nguồn nhân lực dưới sự kiểm soát và đứng đầu của Phó thủ tướng để khẳng định vị trí và vai trò của công tác phát triển nguồn nhân lực. Việc thành lập Ủy ban phát triển nguồn nhân lực có ý nghĩa hết sức quan trọng vì vấn đề nguồn nhân lực không chỉ chịu sự quản lý của Bộ giáo dục mà còn có nhiều bộ ngành liên quan cũng có vai trò và trách nhiệm, đặc biệt còn có sự tham gia từ phía doanh nghiệp bởi lẽ đây là các đơn vị tiếp nhận và sự dụng nguồn nhân lực sau quá trình đào tạo.

Thư tư, công tác phát triển nguồn nhân lực cần phải thực hiện có chiều sâu và suốt cả thời gian học tập và làm việc của nhân sự, trong đó cần rất chú trọng tới độ tuổi nhỏ khi con người bắt đầu hình thành nhân cách và đạo đức nghề nghiệp sau khi bắt đầu công việc. Vấn đề đạo đức và kỹ năng cho nhân sự cần được quan tâm đặc biệt bên cạnh việc đào tạo nghiệp vụ cho nhân sự. Để thực hiện được việc này, cơ quan phát triển nguồn nhân lực trung ương và địa phương cần nghiên cứu và hiệu chỉnh lại chương trình và giáo trình đào tạo theo các bậc học theo hướng đưa thêm các nội dung liên quan tới đạo đức, trách nhiệm xã hội và giáo dục bền vững.

Thứ năm, thực hiện tốt công tác thông kê và minh bạch hóa nguồn nhân lực. Việc thực hiện tốt công tác thống kê nguồn nhân lực có tính hệ thống sẽ giúp cho các doanh nghiệp và đơn vị sửf dụng lao động có thể dễ dàng tiếp cận với nguồn nhân lực, bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo cũng có thể điều chỉnh hoặc thay đổi các chương trình và chuyên ngành đào tạo cho phù hợp với yêu cầu của thị trường.

5.2. Về định hướng, tầm nhìn và chiến lược tổng thể về phát triển nguồn nhân lực

Thứ nhất, mở rộng tự chủ và tiến tới xã hội hóa hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang giao quyền tự chủ cho một số trường đại học hội đủ các điều kiện, tuy nhiên, vẫn còn một số vướng mắc và quy định còn chưa cụ thể dẫn tới việc triển khai tự chủ ở các trường gặp nhiều khó khăn và chưa phát huy được hết tiềm năng của các trường đại học trong công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Do vậy, Chính phủ cần mạnh dạn hơn nữa trong việc giao quyền tự chủ ở diện rộng hơn đối với các trường đại học một mặt phát huy được tiềm năng và cơ hội phát triển cho các trường đại học vươn ra tầm khu vực và thế giới, mặt khác, đây cũng là cách để giảm bớt gánh nặng ngân sách dành cho giáo dục của Chính phủ. Sau giai đoạn tự chủ, Chính phủ cũng cần nghiên cứu cơ chế để cho các thành phần kinh tế trong đó có doanh nghiệp tham gia vào đầu tư, góp vốn một phần tại các cơ sở đào tạo nhằm gắn chặt công tác đào tạo giữa cơ sở đào tạo với đơn vị sử dụng nguồn nhân lực đầu ra cả về sở hữu, chương trình đào tạo và công việc của người học sau khi được đào tạo.

Thứ hai, xây dựng khung tiêu chuẩn nhân lực quốc gia trong bối cảnh mới. Hiện nay, năng lực kiến thức và chuyên môn của nhân sự đào tạo đang được đưa ra bởi các cơ sở đào tạo dựa theo hướng dẫn của Bộ giáo dục và Đào tạo. Tuy nhiên, trên thực tế tiêu chuẩn này chỉ mang tính định tính và rất chung chung chưa gắn với thực tế và yêu cầu của các đơn vị sử dụng nguồn nhân lực. Đây chính là nguyên nhân của khoảng cách giữa kết quả đào tạo của cơ sở đào tạo và yêu cầu năng lực và kỹ năng của đơn vị sử dụng lao động. Để công tác đào tạo sát với thực tế hơn, Bộ giáo dục và Đào tạo cần xây dựng khung tiêu chuẩn nhân lực quốc gia theo các ngành và chuyên ngành làm chuẩn trên cơ sở kết hợp với doanh nghiệp và các đơn vị sử dụng nguồn nhân lực có tính toán đến yêu cầu hội nhập và cách mạng công nghiệp 4.0.

5.3. Về các chính sách cụ thể trong việc trọng dụng và thu hút nhân tài

Thứ nhất, xây dựng hệ thống lương, thưởng và các chế độ ưu đãi thu hút nhân tài: chế độ lương thưởng cần xây dựng dựa trên năng lực và hiệu quả công việc của nhân lực, tránh xây dựng theo kiểu cào bằng với các thang đo cố định như hiện nay. Bên cạnh chế độ lương, thưởng cũng cần xây dựng cơ chế về điều kiện chỗ ở, phương tiện di chuyển và làm việc của nguồn nhân lực cũng như hệ thống đãi ngộ để trọng dụng nhân tài.

Thứ hai, xây dựng chính sách thu hút nhân tài từ các nước đến làm việc tại Việt Nam. Kinh nghiệm của Hàn Quốc đã triển khai nhiều năm và có được kết quả rất khả quan và đã có số lượng nhân sự lớn ở lại sau khi đào tạo và nhân sự có chất lượng cao đến từ các nước khác. Để xây dựng chính sách này, Việt Nam cần tập trung xây dựng cơ chế đãi ngộ tài chính và phi tài chính, cơ chế nhập cư và sở hữu bất động sản và động sản tại Việt Nam và các chính sách khác. Việt Nam cần phải xây dựng một quy trình hết sức khoa học, bao quát từ vấn đề tìm nguồn, tạo  nguồn tới vấn đề lựa chọn, tuyển dụng và vấn đề giám sát, đánh giá hiệu quả cho đội ngũ nhân tài của quốc gia. Quy trình này phải hướng tới việc xây dựng đội ngũ nhân lực tài năng cho cả một thời kỳ dài để hình thành nền kinh tế tri thức, chứ không chỉ là cho nhu cầu phát triển hiện tại của đất nước. Có thể đặt tên cho quy trình mang tính chiến lược này là: “Nhân tài cho tương lai”. Trong quy trình đó, phải đặc biệt chú trọng tới đội ngũ nhân tài làm việc trong khu vực công. Ðội ngũ này phải được hoạch định từ việc tìm nguồn đến việc tuyển chọn; từ việc sắp xếp công việc phù hợp để phát huy tối đa sở trường tới việc đãi ngộ xứng đáng để tránh hiện tượng “chảy máu chất xám” từ khu vực công sang khu vực tư như đang diễn ra rất phổ biến ở Việt Nam hiện nay. Các bộ, ngành, đặc biệt là những ngành công nghệ cao - đại diện cho nền kinh tế tri thức cần có những thử nghiệm táo bạo trong việc mời những trí thức Việt kiều đã thành công ở những nước phát triển về nắm giữ một số vị trí then chốt trong bộ máy lãnh đạo của bộ, ngành mình để tạo nên những đột phá cần thiết, kéo theo sự thay đổi của toàn bộ nền kinh tế.

 

Thứ ba, tạo môi trường thuận lợi cho nhân tài có điều kiện làm việc và phát huy hết khả năng của cá nhân. Trong những năm gần đây, có nhiều Tỉnh/Thành phố đã ban hành nhiều cơ chế thu hút nhân tài về làm việc lâu dài, tuy nhiên, những chính sách chỉ tập trung vào lương, thưởng và chỗ ở là chưa đủ. Điều quan trọng hơn cả là môi trường và điều kiện làm việc, sự giao quyền, ủy quyền và hợp tác trong công việc để nhân tài có thể phát huy được hết khả năng của mình khi đã toàn tâm, toàn ý làm việc lâu dài tại địa phương. Bên cạnh đó, người lãnh đạo của đơn vị, tổ chức phải thực sự coi trọng và tạo điều kiện hết sức để nhân tố nguồn lực mới này có thể phát huy hết khả năng của mình. Mỗi địa phương, dựa trên đặc điểm và nhu cầu cụ thể của mình cần có những chiến lược và chính sách linh hoạt, đa dạng để trọng dụng nguồn nhân lực tài năng phù hợp. Tránh trường hợp trọng dụng nhân tài theo kiểu phong trào, địa phương nào cũng có chính sách “trải thảm đỏ” thu hút nhân tài nhưng không thiết thực, hiệu quả làm lãng phí nguồn chất xám của đất nước như thời gian gần đây.

5.4. Về chính sách chú trọng cho giáo dục và đào tạo

Thứ nhất, ưu tiên và tăng cường ngân sách đầu tư cho đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Hiện nay, chi ngân sách đầu tư cho giáo dục ở Việt Nam chiếm khoảng 5% GDP, mặc dù mức chi ngân sách này được coi là mức trung bình so với các nước trong khu vực, tuy nhiên, nếu tính theo đầu người thì Việt Nam vẫn là quốc gia có mức chi đầu tư cho giáo dục thấp do GDP của Việt Nam thấp hơn so với các nước. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực luôn là yếu tố đầu vào quan trọng và cần được đầu tư mạnh mẽ đối với các quốc gia đang phát triển nhằm tạo động lực bứt phá. Do vậy, Việt Nam cần tăng chi đầu tư cho giáo dục và đào tạo phát triển nguồn nhân lực và cần sử dụng có hiệu quả đối với các khoản chi tiêu này.

Thứ hai, quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục ở bậc mầm non và tiểu học bởi lẽ đây là gốc rễ và nền móng quan trong của nguồn nhân lực trong tương lai. Thực chất công tác giáo dục ở bậc mầm non và tiểu học ở Việt Nam còn thiếu và yếu, bên cạnh đó công tác quản lý còn rất nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy, học sinh ở bậc tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông học căng thẳng, chịu “tải” nhiều hơn ở bậc học đại học. Học sinh và phụ huynh đều lao vào cuộc chạy đua trang bị kiến thức với sự mệt mỏi và cảm giác “vô lý”, nhưng lại không yên tâm để dừng lại. Học sinh phải học và nhớ nhiều kiến thức lý thuyết nhưng khi học xong, hoặc không nhớ, hoặc chóng quên, trong khi kiến thức thực tế, cách cư xử trong gia đình, kỹ năng làm việc theo nhóm, cách giao tiếp, hành xử trong cộng đồng..., lại được đào tạo, giáo dục không tương xứng. Thêm vào đó, chương trình giáo dục chưa thực sự phù hợp do chỉ tập trung vào việc học tập mà bỏ qua việc đào tạo kỹ năng cho trẻ. Công tác này được Hàn Quốc đặc biệt quan tâm và đầu tư nhiều ngân sách, chương trình và cả đội ngũ giáo viên chuyên nghiệp để thực hiện.

Thứ ba, tiếp tục thực hiện đề án đào tạo cán bộ tại nước ngoài bằng ngân sách nhà nước. Thêm vào đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần thiết kế những dự án du học để đảm bảo số lượng du học sinh sau khi học tập phần lớn sẽ trở về cống hiến cho công cuộc phát triển đất nước. Bên cạnh đó, tăng cường hợp tác quốc tế để nhận thêm các hỗ trợ từ các quốc gia phát triển cấp học bổng cho học sinh, sinh viên Việt Nam sang học tập tại các nước phát triển và có cơ chế quản lý và chính sách phù hợp để lưu học sinh trở về làm việc tại Việt Nam sau khi tốt nghiệp.

  1. Kết luận

Nguồn nhân lực là yếu tố nguồn lực quan trọng nhất đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Để có được nguồn nhân lực chất lượng cao, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, cần phải xây dựng chiến lược và chính sách nguồn nhân lực đồng bộ và khoa học dựa trên việc tổng kết thực tiễn và học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, đặc biệt là Hàn Quốc. Thông qua nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của Hàn Quốc, đứng ở góc độ chiến lược và chính sách cho thấy, để có được nguồn nhân lực chất lượng cao đặc biệt cần đến tầm nhìn của lãnh đạo, tính hiệu quả và minh bạch của Chính phủ, định hướng chiến lược nhân sự tổng thể, chính sách thu hút nhân tài và đặc biệt là chính sách giáo dục và đào tạo. Cùng với đó, chúng ta cũng cần xây dựng một hệ thống thông tin về cung cầu nhân sự ở quy mô quốc gia và có những tính toán, dự báo đầu vào phục vụ cho công tác hoạch định nhân lực để thực hiện việc xây dựng chiến lược và chính sách nguồn nhân lực một cách bền vững trong tương lai.   

Tài liệu tham khảo

  1. Bassanini, A., and Scarpetta S. (2001), Does human capital matter for growth in OECD countries? Evidence from pooled mean-group estimates. OECD Economics Department Working Paper No.282. Paris: OECD.
  2. Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (2018), Chính sách giáo dục và đào tạo nghề Hàn Quốc được xây dựng phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế, http://www.molisa.gov.vn/vi/Pages/chitiettin.aspx?IDNews=27679, truy cập ngày 09/01/2019.
  3. Bùi Mạnh Hùng (2012), “Vài nét về giáo dục Hàn Quốc và kinh nghiệp đối với Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHSP TPHCM, Số 34, 3-9.
  4. Chu Văn Cấp (2014), “Giáo dục đào tạo với phát triển nguồn nhân lực của Hàn Quốc và những gợi mở cho Việt Nam”, Tạp chí Phát triển & Hội nhập số 17, 85-88.
  5. Goldman Sachs (2009), “The Long-term Outlook for the BRICS and N-11 Post Crisis”, Global Economics Paper, No: 192.
  6. Koo, H.B (1991), Korea’s Industrialization and Social Capability,Korea Development Institute, Seoul, Korea.
  7. Lucas, R (1988), “On the mechanics of economics”, Journal of Monetary Economics 22, 3-42.
  8. Ministry of Education & Human Resources Development (2008), Korea Education 2007-2008, Republic of Korea.
  9. Ministry of Education & Human Resources Development (2004), Report "Brief Statistics on Korean Education 2003", Korean Educational Development Institute.
  10. Ministry of Education & Human Resources Development (2005), Report 2005 "Education in Korea".
  11. Ministry of Labor (2004), Labor laws of Korea, Seoul, Republic of Korea.
  12. OECD (2016), Education Policy Outlook Korea, http://www.oecd.org/education/Education-Policy-Outlook-Korea.pdf.
  13. OECD (2012), Education at a Glance: OECD Indicators, Korea, https://www.oecd.org/education/EAG2012%20-%20Country%20note%20-%20Korea.pdf.
  14. Romer, P (1986), “Increasing Returns and Long-Run Growth”, The Journal of Political Economy 94(5), 1002-1037.
  15. Squire, L., Knowlton, B., and Musen, G (1993), “The structure and organization of memory”, Annual Review of Psychology 44, 453-495.
  16. Võ Hải Thanh (2014), Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông ở Hàn Quốc, Trung tâm Nghiên cứu Hàn Quốc – Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.

 

 

[1] Bài viết là sản phẩm của Đề tài “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong cơ chế thị trường” (thuộc Chương trình KHCN Giáo dục Quốc gia giai đoạn 2016-2020), mã số KHGD/16-20.ĐT.019

[2] Trường Đại học Ngoại thương, email: quannh@ftu.edu.vn

[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Email: ntthuy@moet.gov.vn

[4] https://www.gfmag.com/global-data/country-data/south-korea-gdp-country-report

[5] https://tradingeconomics.com/south-korea/gdp

 

 

CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC QUỐC GIA CỦA HÀN QUỐC[1]

Nguyễn Hồng Quân[2]

Nguyễn Thu Thủy[3]

 

Tóm tắt

Hàn Quốc là một quốc gia có nền giáo dục hàng đầu châu Á, có sự tăng trưởng và phát triển ngoạn mục về kinh tế trong suốt những thập niên cuối thế kỷ XX. Mặc dù đầu những năm 1960, Hàn Quốc là một trong những quốc gia có thu nhập bình quân đầu người thuộc các nước thấp nhất thế giới - chưa đến 100 USD, đến nay thu nhập đầu người của Hàn Quốc đạt gần  30.000 USD/năm, trong khi tài nguyên thiên nhiên không phải là thế mạnh của quốc gia này. Cùng với khoảng thời gian đổi mới và phát triển kinh tế, chiến lược phát triển quốc gia về nguồn nhân lực mới cũng được tiến hành và đã có sự đóng góp không nhỏ đến thành công của Hàn Quốc ngày hôm nay. Bài viết này nghiên cứu và phân tích chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân lực quốc gia của Hàn Quốc, chỉ ra mối quan hệ giữa chính sách phát triển nguồn nhân lực với những thành tựu mà ngành giáo dục và nền kinh tế Hàn Quốc đã đạt được trong thời gian qua, cùng một số bài học kinh nghiệm cho các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

Từ khóa: Chiến lược phát triển, chính sách phát triển, nguồn nhân lực, Hàn Quốc.

Abstract

Korea is the Asia's leading education countries, with spectacular economic growth and development during the last decades of the 20th century. Although in the early 1960s, Korea was one of those countries with the lowest per capita income in the world - less than USD100, Korea's per capita income now has reached nearly USD30,000/year, while natural resources are not the strength of the country. Along the period of innovation and economic development, the national strategy for human resource development has also been carried out and made a great contribution to the success of Korea today. This paper studies and analyzes Korea's national strategy and policies in human resource development, points out the relationship between those strategy & policies and the achievements that the education sector and the Korea's economy as a whole have gained over the recent years, then draws relevant lessons for developing countries, including Vietnam.

Keywords: Strategy, policies, human resource development, Korea

  1. Đặt vấn đề

Con người là trung tâm của mọi hoạt động trong xã hội loài người. Vai trò của nguồn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế đã được ghi nhận trong các lý thuyết về tăng trưởng nội sinh của Romer (1986), Lucas (1988), Squire và cộng sự (1993), Bassanini & Scarpetta (2001) đã xác định nguồn nhân lực trở thành yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo. Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng, năng lực, khả năng của mỗi cá nhân, của mỗi cộng đồng và toàn xã hội đã tạo ra sự phát triển cho xã hội được thể hiện qua các yếu tố như giáo dục, chuyên môn, kỹ năng lao động, mức sống, sức khỏe, tư tưởng tình cảm. Trong các yếu tố đó thì hai nhân tố quan trọng và bao quát nhất là giáo dục và sức khỏe.

Nhận thức rõ điều này, năm 1948, khi Hàn Quốc được thành lập, chính phủ Hàn Quốc đã tiến hành xây dựng một hệ thống giáo dục mới. Qua nhiều lần cải cách, ngày nay hệ thống giáo dục đó được nhiều quốc gia nghiên cứu và học tập. Khi nói tới nền giáo dục của Hàn Quốc có thể nhìn nhận ở một số điểm nổi bật: (1) là nền giáo dục bảo đảm quyền bình đẳng về cơ hội cho mọi công dân, mọi người đều được học tập tùy theo năng lực của mình, không phân biệt giới tính, tôn giáo, vùng miền hay địa vị xã hội (những chính sách cụ thể hiện nay đã thể hiện nhất quán tư tưởng đó như giáo dục miễn phí, phát miễn phí sách giáo khoa cho học sinh ở bậc học bắt buộc); (2) có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống của đất nước; tất nhiên, giáo dục có vai trò quan trọng đối với mọi quốc gia nhưng ở Hàn Quốc, nó có tầm quan trọng quá đặc biệt; (3) do chính sách giáo dục bình đẳng, tinh thần hiếu học và sự đầu tư lớn từ cả nhà nước và người dân, Hàn Quốc có một nền giáo dục có chất lượng đáng để học tập. Để có được những thành quả đó, Hàn Quốc đã có những chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân lực hợp lý và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, một mặt tạo lập yếu tố đầu vào có chất lượng cho quá trình công nghiệp hóa đất nước, mặt khác còn tạo ra một thế hệ công dân mới, công dân toàn cầu. Bài viết này tập trung phân tích các chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân lực của Hàn Quốc, nhấn mạnh vào các chính sách giáo dục và đào tạo, từ đó chỉ ra các bài học kinh nghiệm cho các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

  1. Giới thiệu khái quát về bối cảnh kinh tế - xã hội của Hàn Quốc

2.1. Về kinh tế

Kinh tế Hàn Quốc đã có sự phát triển mạnh mẽ, từ một trong những nước nghèo nhất thế giới sau cuộc chiến tranh Triều Tiên trở thành một trong những nước giàu, đứng trong top 10 nước có GDP bình quân đầu người cao nhất ở khu vực châu Á[4]. Tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người (tính theo sức mua tương đương) của nước này đã nhảy vọt từ 100 USD vào năm 1963 lên 10.000 USD vào năm 1995, 25.000 USD vào năm 2007 và đạt mức 32.400 USD vào năm 2014. Theo một báo cáo phân tích và dự báo của Goldman Sachs (OECD, 2012), Hàn Quốc có thể trở thành nước giàu thứ 3 trên thế giới vào năm 2025 với GDP bình quân đầu người là 52.000 USD.

Kinh tế Hàn Quốc có sự nhảy vọt như vậy là nhờ vào chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ. Một mặt Hàn Quốc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nhằm mở rộng thị trường cho hàng hóa của Hàn Quốc, bên cạnh đó, Hàn Quốc còn tập trung vào phát triển nông nghiệp bên cạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa nhanh chóng. Cùng với sự phát triển khoa học công nghệ mạnh mẽ, gia tăng nhanh chóng chất lượng giáo dục và mức sống, Hàn Quốc đã đạt được mốc GDP 1.530 tỷ USD[5] năm 2017.

2.2. Về xã hội

Ở Hàn Quốc, ngôn ngữ chính thức là tiếng Hàn Quốc (tiếng Triều Tiên). Kể từ bậc tiểu học, học sinh đã được dạy tiếng Anh. Sau này tiếng Trung Quốc và tiếng Nhật cũng trở thành ngoại ngữ chính. Các ngôn ngữ Châu Âu như tiếng Pháp, tiếng Đức và tiếng Tây Ban Nha ít phổ biến hơn. Ở Hàn Quốc, có khoảng 46% của công dân không theo tôn giáo nào. Người theo đạo Cơ đốc chiếm 29,2% dân số (trong số đó là đạo Tin lành 18,3%, Công giáo 10,9%) và 22,8% là Phật tử; 1% là tín đồ đạo Khổng, 1% còn lại theo các tôn giáo khác. Tại Hàn Quốc có khoảng 45.000 người bản địa theo Hồi giáo (khoảng 0,09% dân số), bổ sung vào con số 100.000 lao động nước ngoài từ các quốc gia Hồi giáo.

2.3. Về giáo dục

Hệ thống trường học hiện đại ở Hàn Quốc gồm sáu năm tiểu học, ba năm trung học cơ sở và ba năm trung học phổ thông. Học sinh bắt buộc phải học tiểu học và trung học cơ sở nhưng không phải trả chi phí giáo dục, ngoại trừ một khoản phí nhỏ gọi là “Phí hỗ trợ hoạt động của nhà trường”, khoản phí này khác nhau tùy theo từng trường học. Chương trình đánh giá học sinh quốc tế, do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế thế giới (OECD) khởi xướng và chỉ đạo, xếp hạng giáo dục khoa học của Hàn Quốc tốt thứ ba trên thế giới (OECD, 2012).

Hàn Quốc thường xuyên có xếp hạng cao về toán học và văn học trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc tế, trong đó kỹ năng giải quyết vấn đề luôn được đánh giá rất cao (theo kết quả của PISA – chương trình đánh giá học sinh quốc tế của OECD). Mặc dù sinh viên Hàn Quốc thường được xếp hạng cao trong các bài kiểm tra so sánh quốc tế, hệ thống giáo dục của nước này đôi khi bị lên án vì tập trung nhấn mạnh vào việc học thụ động và học thuộc lòng. Hệ thống giáo dục của Hàn Quốc được được đánh giá là tương đối khắt khe và có xu hướng rập khuôn hơn hệ thống giáo dục ở hầu hết các nước phương Tây. Ngoài ra, các trường tư thục thường có mức thu học phí cao và đây là một vấn đề lớn của xã hội.

  1. Chiến lược và các chính sách phát triển nguồn nhân lực quốc gia của Hàn Quốc

3.1. Chiến lược định hướng tổng thể về phát triển nguồn nhân lực quốc gia theo từng giai đoạn

Chính sách giáo dục được xây dựng phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế. Đây là nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của quốc gia này. Năm 1950, Chính phủ Hàn Quốc chủ trương xóa mù chữ cho toàn dân. Những năm sau đó, hệ thống giáo dục dần được đẩy mạnh như: phát triển giáo dục hướng nghiệp trong các trường trung học (năm 1960); các trường dạy nghề kỹ thuật (năm 1970); đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và giáo dục trên lĩnh vực khoa học cơ bản và công nghệ, nâng cao chất lượng giáo dục và học suốt đời. Năm 1992, Hàn Quốc thực hiện cải cách giáo dục với mục tiêu tái cấu trúc hệ thống giáo dục hiện có thành một hệ thống giáo dục mới, bảo đảm cho người dân được học suốt đời. Tháng 12/2001, Chính phủ Hàn Quốc công bố Chiến lược quốc gia lần thứ nhất về phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2001-2005. Tiếp đó, Chiến lược quốc gia lần thứ hai về phát triển nguồn nhân lực thời kỳ 2006-2010 được xây dựng và thực hiện hiệu quả.

3.1.1. Chiến lược xóa mù chữ toàn dân (1950-1960): Kể từ sau Thế chiến thứ hai kết thúc, Bán đảo Hàn Quốc được giải phóng, thoát khỏi ách thống trị của Nhật sau hơn 35 năm. Tuy nhiên, không lâu sau đó, thế giới bắt đầu đi vào thời kỳ chiến tranh lạnh, bán đảo Hàn bị chia cắt thành hai miền Nam-Bắc với hai chế độ chính trị xã hội đối lập nhau, người dân xứ Hàn đã phải trải qua những thử thách nặng nề bởi cuộc nội chiến (1950-1953). Nam Triều Tiên (Hàn Quốc) đã đồng nhất quan điểm phát triển với Mỹ và đã đạt được thỏa thuận tài trợ từ phía Mỹ khoảng 12 tỷ USD (gấp 6 lần so với GDP) vào thời điểm đó. Các chương trình xóa mù chữ toàn dân được Chính phủ Hàn Quốc ưu tiên thực hiện và coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công cuộc tái thiết đất nước và chuẩn bị yếu tố nguồn lực quan trọng cho sự phát triển của đất nước trong tương lai. Năm 1945 tỷ lệ mù chữ của Hàn Quốc là 97%, đến năm 1960 tỷ lệ này chỉ còn 20%, và đến 2017 chỉ còn dưới 2%. Hệ thống các trường học được Hàn Quốc đầu tư và khuyến khích toàn dân tham gia học tập để xây dựng và kiến thiết đất nước, thậm chí còn có những khẩu hiệu “Ngủ 5 giờ/đêm là thất bại, ngủ 4 giờ/đêm là thành công”.

3.1.2. Chiến lược giáo dục hướng nghiệp (1970-1990): trong giai đoạn này, bằng cấp được xã hội Hàn Quốc coi trọng và việc công dân học tập để tìm kiếm một công việc là một yêu cầu bắt buộc. Theo đó, năm 1967, đạo luật đào tạo nghề ra đời đã khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề nhằm tạo ra lực lượng lao động có kỹ năng mà các doanh nghiệp có nhu cầu. Các trường và trung tâm dạy nghề phát triển nhanh và mở rộng trong những năm 1970. Đồng thời, Hàn Quốc tăng cường hợp tác với các nước Mỹ, Đức, Nhật, Bỉ... trong đào tạo giáo viên hướng dẫn nhằm tạo “khung” hệ thống đào tạo nghề. Thời kỳ 1980-1990, nền công nghiệp hướng vào phát triển các ngành công nghiệp dựa vào thông tin, tri thức và công nghệ cao. Vì thế, đào tạo nghề tập trung vào đào tạo lao động kỹ thuật có trình độ cao.

3.1.3. Chiến lược giáo dục suốt đời (1992-2000): Bước sang thế kỷ XXI, nền giáo dục của Hàn Quốc đứng trước thách thức mới. Thế giới đang chuyển từ Thời đại công nghiệp sang Thời đại Công nghệ thông tin và nền kinh tế tri thức. Hàn Quốc phải đương đầu với hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997, qua đó tiến hành cải cách toàn diện nền kinh tế, trong đó có cải cách về lực lượng lao động. Nếu như trước kia lao động chăm chỉ và lương thấp là điều kiện quan trọng trong tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc thì đến nay đã trở nên lỗi thời và thậm chí còn gây cản trở đối với nền kinh tế. Yêu cầu về nguồn nhân lực của Hàn Quốc đã thay đổi từ những công nhân được tiêu chuẩn hoá hàng loạt sang các chuyên gia sáng tạo đa dạng. Cuộc cải cách giáo dục mới nhằm mục tiêu đào tạo ra nguồn nhân lực thích hợp, xây dựng xã hội thông tin, tăng cường năng lực cạnh tranh của Hàn Quốc trong thế kỷ XXI. Mức đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D) của Hàn Quốc năm 2000 vào loại cao, chiếm 2,8% GDP so với ở Mỹ 2,6%, Pháp 2,3%, Singapore 1,1% và Malaysia 0,2%. Hàn Quốc cần có một đội ngũ lao động được đào tạo quy mô làm nền tảng cho các ngành công nghiệp mới, trong đó việc đầu tư cho các nguồn nhân lực tài năng, có kỹ năng và sáng tạo phải được ưu tiên hàng đầu.

Từ những năm 1990 trở đi, Chính phủ Hàn Quốc có định hướng chiến lược phát triển 10 ngành công nghiệp chủ lực làm động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, các hoạt động nghiên cứu và giáo dục trên lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ, nâng cao chất lượng giáo dục và học tập suốt đời, được đẩy mạnh. Năm 1992, Hàn Quốc thực hiện cải cách giáo dục với mục tiêu tái cấu trúc hệ thống giáo dục hiện có thành hệ thống giáo dục mới bảo đảm cho người dân được học tập suốt đời.

3.1.4. Chiến lược giáo dục quốc gia lần thứ Nhất (2001-2005) và Chiến lược giáo dục quốc gia lần thứ Hai (2006-2010): Phát triển nguồn nhân lực

Nội dung chính của các chiến lược này đề cập tới sự tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp, trường đại học và các cơ sở nghiên cứu; nâng cao trình độ sử dụng và quản lý nguồn nhân lực, nâng cao tính chuyên nghiệp của nguồn nhân lực trong khu vực công; xây dựng hệ thống đánh giá và quản lý kiến thức, kỹ năng và công việc; xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin cho phát triển nguồn nhân lực; xây dựng và phát triển thị trường tri thức...Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp Hàn Quốc là một trong những nội dung quan trọng của đào tạo nghề được đầu tư và phát triển tại Hàn Quốc. Việc hỗ trợ cho doanh nghiệp của Hàn Quốc khi doanh nghiệp đào tạo nghề cho lao động được lấy trong chi phí bảo hiểm lao động. Để nhận chi phí đào tạo này thì doanh nghiệp Hàn Quốc phải đăng ký và mua bảo hiểm lao động. Chi phí này được hỗ trợ cho việc chí phí đào tạo, ăn ở, đi lại. Quy trình hỗ trợ đào tạo doanh nghiệp từ khi bắt đầu đăng ký đến nhận hỗ trợ đều được đăng ký trên internet. Doanh nghiệp cũng như bên hỗ trợ đào tạo sẽ nên lịch trình nội dung, mục đào tạo gửi lên Cơ quan phát triển nguồn nhân lực (HRD) để đăng ký. Cơ quan HRD sẽ kiểm tra, xem chương trình có khả thi để đồng ý hay không đồng ý. Với trường hợp cho phép doanh nghiệp tiến hành đào tạo, doanh nghiệp sẽ phải nộp báo cáo về tiến độ đào tạo cũng như hỗ trợ tài chính cho quá trình đào tạo và trình lên các cơ quan liên ngành. Phía HRD sẽ nhận báo cáo của doanh nghiệp và sẽ giám sát quá trình đào tạo xem có phù hợp với người lao động không. Hiện nay, hỗ trợ đào tạo năng lực nghề cho doanh nghiệp đang chiếm tỷ trọng ngân sách lớn nhất của HRD, khoảng 3.000 tỷ Won (Bộ LĐ-TB&XH, 2018). Cách thức đào tạo phong phú, đa dạng từ đào tạo trực tiếp đến đào tạo từ xa. Hiện nay, hình thức đào tạo trực tiếp đang có xu hướng giảm và thay vào đó là đào tạo từ xa thông qua internet. Đây là hình thức đào tạo phù hợp với xu hướng nhằm tiếp kiệm thời gian, tiền bạc. Hình thức đào tạo này chủ yếu đào tạo quy trình nghiệp vụ (hành chính). Về kế hoạch đào tạo nghề cho doanh nghiệp, Chính phủ Hàn Quốc sẽ tập trung ưu tiên đào tạo cho doanh nghiệp vừa và nhỏ với tỷ lệ 100% cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, 60% cho doanh nghiệp lớn và 40% cho doanh nghiệp trên 1.000 người (Bộ LĐ-TB&XH, 2018).

3.1.5. Chiến lược giáo dục thông minh (2011-2015): Giáo dục thông minh là một dạng đổi mới giáo dục, bởi nó thay đổi khuôn khổ giáo dục hiện hành. Vì thế, cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, không để xảy ra những hiệu ứng phụ tiêu cực. Mục đích của giáo dục không chỉ là cung cấp kiến thức. Cần đặc biệt chú ý việc xây dựng tính cách và phát triển hành vi ứng xử xã hội. Chính phủ cũng cần nỗ lực hết sức đưa ra các biện pháp hỗ trợ để giải quyết những vấn đề có thể nảy sinh trong quá trình xây dựng nền giáo dục thông minh.

Trong giai đoạn này, Bộ Giáo dục Hàn Quốc bảo đảm đầu tư khoảng 2 tỷ USD để xây dựng hạ tầng cần thiết và mua máy tính cũng như các thiết bị tiên tiến khác. Sách giáo khoa in và các tài liệu giảng dạy khác sẽ được số hóa đối với bậc tiểu học vào năm 2014 và bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông vào năm 2015. Như vậy, kể từ năm 2015, sách giáo khoa in sẽ không còn tồn tại trong các trường tiểu học và trung học ở Hàn Quốc. Chiến lược giáo dục "thông minh" ở Hàn Quốc nhằm nâng cao tính cạnh tranh, đưa giáo dục Hàn Quốc vào tốp 10 nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới vào năm 2015 và tốp ba trên thế giới vào năm 2025. Để thực hiện mục tiêu này, nền giáo dục thông minh sẽ tập trung vào "hướng dẫn tự học" và "học tập theo yêu cầu". Đây là một sự chuyển hướng từ việc truyền tải kiến thức tiêu chuẩn theo cách truyền thống trên diện rộng nhắm tới đối tượng học sinh mức trung bình. Hệ thống giáo dục thông minh sẽ hướng dẫn cho các em tự học, phù hợp nhu cầu của từng học sinh. Học sinh sẽ có thêm cơ hội tham dự nhiều lớp học khác nhau theo sở thích và năng khiếu của từng em. Sách giáo khoa số là một dạng "nội dung" sẽ được lưu trong máy chủ internet thông qua hệ thống điện toán đám mây và được truy cập bằng máy tính cá nhân, máy tính bảng, điện thoại thông minh và Tivi thông minh cùng nhiều thiết bị khác. Điều này có nghĩa là học sinh có thể truy cập bất cứ những gì các em muốn học và vào bất cứ lúc nào. Cách này sẽ giúp cải thiện đáng kể hiệu quả học tập của các em. Việc số hóa sách giáo khoa sẽ giúp giảm chi phí liên quan giáo dục của các hộ gia đình và giảm nhu cầu học thêm.

3.1.6. Chiến lược giáo dục kỷ nguyên 4.0 (2016 trở đi):

Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) Klaus Schwab (2017) từng đưa ra nhận định về sự thiếu vắng của một dòng chảy chung và liền mạch để tích cực dẫn dắt thế giới đi qua những cơ hội và thách thức do cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) mang đến; Trong lúc đó, năng lực lãnh đạo và sự hiểu biết của chúng ta liên quan đến các xu hướng trong nhiều lĩnh vực hiện vẫn còn ở mức thấp so với yêu cầu cần xét lại của cả hệ thống kinh tế, xã hội, chính trị để có thể thích nghi với những thay đổi mang tính nền tảng. Vì vậy, Hàn Quốc cũng không phải là một ngoại lệ, họ đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nguồn nhân lực để tiếp cận và làm chủ với cuộc CMCN 4.0.

Hàn Quốc cũng đã tiến hành đánh giá về năng lực cạnh tranh của quốc gia trong CMCN 4.0 một cách thực chất, theo đó Hiệp hội Ngoại thương Hàn Quốc (KITA) thực hiện đã xếp nước này đứng thứ 21, đây là mức khá thấp so với trình độ phát triển chung, nhất là trong lĩnh vực Công nghệ thông tin, vốn là thế mạnh của Hàn Quốc. Chính vì vậy, Hàn Quốc hiện đang rất nỗ lực thu hút sự chú ý của người dân và doanh nghiệp đến với cuộc CMCN 4.0. Bên cạnh đó, việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho cuộc CMCN 4.0 cũng đã được Chính phủ Hàn Quốc xem xét và nhìn nhận một cách nghiêm túc trên cơ sở sự hợp tác chặt chẽ giữa người học, doanh nghiệp và toàn xã hội.

3.2. Các biện pháp chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao mang đẳng cấp quốc tế

3.2.1. Định hướng tổng thể phát triển nguồn nhân lực Hàn Quốc

- Chính sách pháp luật về phát triển nguồn nhân lực

Sau khi ban hành luật đào tạo nghề vào năm 1967, hệ thống dạy nghề ở Hàn Quốc đã trở thành hệ thống phụ giúp cho hệ thống giáo dục chính thống trong việc đào tạo người có kĩ năng. Điều luật này quy định các cơ sở đào tạo nghề gồm 3 loại: tổ chức nghề cộng đồng được điều hành bởi nhà nước và chính quyền trung ương; tổ chức nghề phi lợi nhuận được điều hành bởi bộ lao động; và các trường dạy nghề thông thường được thực hiện bởi chính các doanh nghiệp tư nhân. Một quy định quan trọng đó là điều luật quy định tất cả các doanh nghiệp trên 500 nhân công phải cung cấp chương trình đào tạo thường xuyên.

Để tăng tính hiệu quả của điều luật, năm 1997, một điều luật khác về tăng cường đào tạo đã được thông qua bởi các nhà quản lí. Điều luật số 5474 với mục tiêu nâng cao nghề nghiệp của người lao động, nâng cao vị thế, tăng năng suất lao động bằng cách giúp người lao động phát triển và sử dụng khả năng để đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Điều luật này đặt ra tiêu chuẩn rằng, các khóa đào tạo phải đi đôi với giáo dục chính thống và gắn với ngành công nghiệp trọng điểm. Hơn nữa, điều luật cũng quy định nếu bất cứ cá nhân hoặc doanh nghiệp nào có thể phát triển trường đào tạo chất lượng sẽ được Bộ Lao động cung cấp các chi phí và khoản tín dụng. Như vậy, chính sách này không chỉ giúp các tổ chức hoặc doanh nghiệp lớn mà còn khuyến khích các cá nhân mở các chương trình đào tạo. Chính những khuyến khích bằng các điều luật này đã là nguồn cung cấp nhân lực kĩ thuật cao cho các doanh nghiệp của cả nhà nước và tư nhân trong quá khứ và những năm gần đây.

- Tổ chức chuyên trách về nhân lực ở Trung ương

Để nâng cao tầm quan trọng của nguồn nhân lực, Chính phủ Hàn Quốc đã tổ chức một số đơn vị chuyên trách về nhân lực. Trước hết, Bộ Giáo dục được phát triển trong 3 giai đoạn: giai đoạn quản lí hành chính, giai đoạn cải cách và giai đoạn nâng cấp. Trong thời kỳ đầu, Bộ quyết định phần lớn các công việc về giáo dục như số lượng nhập học, chi tiêu tài chính và cơ cấu của các trường đại học. Chính vì vậy, có nhiều quan điểm cho rằng, các đại học thành viên không có nhiều tự do để lựa chọn những sinh viên đầu vào và các kì thi viết và thi đầu vào được ấn định bởi Bộ giáo dục. Hơn nữa, không có nhiều cơ hội cho các tổ chức để thành lập các trường đại học do cách quản lí và tính nguyên tắc từ bộ. Tuy vậy, kể từ năm 1991, Bộ Giáo dục đã trao quyền thêm cho các trường đại học trong việc kế hoạch chi tiêu và ra quyết định hành chính, điều này tạo điều kiện hơn cho các trường đại học trong việc theo đuổi các chuyên ngành mũi nhọn chất lượng cao. Bên cạnh đó, quan chức địa phương không được phép can thiệp vào hệ thống giáo dục ở địa phương nhằm đảm bảo hệ thống giáo dục mang tính độc lập so với hệ thống quản lí hành chính.

-  Chính sách đào tạo nhân tài ở Hàn Quốc

Hàn Quốc đã xây dựng chương trình giáo dục cho người tài và người đặc biệt, chương trình cho giáo dục người tài gồm hai phần: giáo dục phổ thông và giáo dục với chương trình đặc biệt. Ở Hàn Quốc, trường học đầu tiên cho giáo dục nhân tài được thành lập vào năm 1983 ở bậc trung học phổ thông. Trường học này tập trung vào những bài giảng có trình độ tiên tiến. Tuy nhiên, thời kỳ đầu chỉ bao gồm các khoa như ngoại ngữ, nghệ thuật và thể thao. Hơn nữa, các trường học này được thành lập theo Luật Giáo dục thông thường nên sự hoạt động vẫn chưa đủ hiệu quả và năng động để đáp ứng những yêu cầu của học sinh tài năng.

Sau khủng hoảng kinh tế tại nước này năm 1997, Quốc hội Hàn Quốc đã nhanh chóng ban hành Luật Giáo dục nhân tài. Luật này đề cập đến ba loại hình đào tạo nhân tài gồm: trường đặc biệt cho nhân tài, trung tâm giáo dục người tài và những lớp đặc biệt cho học sinh đặc biệt ở các trường học thông thường. Luật yêu cầu chính quyền trung ương và địa phương phải lập kế hoạch, thực hiện và trợ giúp một cách hệ thống và liên tục đối với giáo dục nhân tài. Mỗi trường học có sự tự quản về chính sách giáo dục nhân tài và quan trọng hơn, mỗi một bộ, ngành bên cạnh Bộ Giáo dục có thể xây dựng và tổ chức các trường giáo dục nhân tài. Để giáo dục nhân tài hoạt động hiệu quả, theo báo cáo của Bộ Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực năm 2004, cơ sở luật pháp cho việc thực hiện giáo dục nhân tài theo sau điều luật trên được ban hành vào tháng 1 năm 2000. Điều khoản luật mới khuyến khích các trường thành lập nhiều nhóm nguồn nhân lực chất lượng cao nhưng số lượng của mỗi nhóm nên ở con số tối thiểu. Các lớp học cho sinh viên đặc biệt và các trường học có trách nhiệm tìm ra những sinh viên đặc biệt và tiến hành cung cấp nhiều hoạt động giáo dục khác nhau cho những học viên tài năng.

Vào tháng 11 năm 2002, một kế hoạch khác ra đời nhằm thúc đẩy giáo dục nhân tài do Hội đồng Phát triển Nguồn nhân lực ban hành. Kế hoạch này đưa ra các mục tiêu rõ ràng và mang tính hiện thực cao. Hơn nữa, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng tiến hành mở các lớp và trung tâm giáo dục khoa học cho những học viên tài năng và những trung tâm này cũng giống như các phòng thí nghiệm đang hoạt động trong các trường đại học. Ở các trung tâm khoa học này có sự khác nhau giữa các khu vực trong việc tuyển chọn học viên không theo kì thi tuyển mà bằng việc xem xét kết quả học tập ở các cấp học bên dưới, thông qua phỏng vấn và những trắc nghiệm khác nhau. Điểm số đầu vào được đánh giá cao dựa trên phỏng vấn khác biệt, dựa trên thi nói và khả năng trong các cuộc thi mà thí sinh đã dự thi. Đối với các học sinh ở bậc trung học phổ thông, sau khi kết thúc các lớp học khoa học, họ có thể vào thẳng năm thứ hai bậc đại học của Viện Khoa học và Công nghệ Cao cấp Hàn Quốc (KAIST). Hội đồng tuyển chọn bao gồm các giáo sư trong Viện KAIST sẽ chọn những học viên xuất sắc nhất và những sinh viên mới này sẽ được học các chương trình học nâng cao với nhiều nội dung đủ để đạt trình độ cao và hiện đại khi tốt nghiệp

- Ngân sách đầu tư cho giáo dục

Sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Hàn Quốc cũng đã đóng góp đáng kể vào giá trị mà người Hàn Quốc đặt vào giáo dục đại học. Trong 25 năm qua, quốc gia này đã nhận ra tỷ lệ lợi nhuận rất cao từ đầu tư giáo dục, dao động khoảng 10%. Việc đầu tư cho giáo dục một mặt tạo công ăn việc làm với thu nhập cao hơn cho người học và giá trị tích lũy càng tăng theo thời gian. Theo thống kê của Bộ Giáo dục Hàn Quốc, năm 2007, sinh viên tốt nghiệp đại học có thu nhập gấp 2,5 lần so với các đồng nghiệp có bằng trung học cơ sở. Với sự nghiệp công nghiệp hóa nhanh chóng của Hàn Quốc, thị trường lao động được phân chia theo các lĩnh vực giáo dục. Giáo dục đại học được coi là điều thiết yếu để tham gia vào thị trường lao động chính vì đây là lực lượng lao động có trình độ cao có thể đảm nhận được các vị trí then chốt trong nền kinh tế Hàn Quốc.

Từ quan điểm đó, Bộ Giáo dục có ngân sách 29 tỷ đô la Mỹ, gấp sáu lần so với năm 1990, con số này chiếm khoảng 20% chi tiêu của chính phủ trung ương. Chi ngân sách giáo dục không ngừng tăng lên, đến năm 2017, chi giáo dục đạt con số 4.1% GDP. Giáo viên được coi là một phần quan trọng của khoản đầu tư đó, thống kê của OECD xếp thứ 10 Hàn Quốc trong bảng xếp hạng về mức lương giáo viên, đến năm 2005 lương giáo viên đã được xếp thứ 3 trong các nghề tại Hàn Quốc.

3.2.2. Đổi mới hệ thống giáo dục, chương trình đào tạo và nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên

- Đổi mới hệ thống giáo dục

Sau một thời gian hiệu chỉnh hệ thống giáo dục của Hàn Quốc cho tới nay đã thống nhất theo năm và các cấp học bao gồm: Bậc tiểu học (6 năm), Bậc Trung học cơ sở (3 năm), bậc Trung học Phổ thông (3 năm), Bậc Đại học (4 năm), Sau đại học (2-3 năm đối với Thạc sĩ, 2-4 năm đối với Tiến sĩ).

- Chương trình đào tạo của Hàn Quốc

+ Triết lý và quan điểm giáo dục

Tư tưởng chỉ đạo xây dựng Chương trình giáo dục Hàn Quốc năm 2007 được xác định cũng nhằm hướng đến con người được giáo dục tốt nhất: “Giáo dục Hàn Quốc nhằm giúp mỗi công dân phát triển cá tính và những kĩ năng cần thiết cho cuộc sống của một công dân độc lập dưới ánh sáng của tư tưởng nhân đạo và tinh thần trách nhiệm vì sự phồn thịnh của đất nước và nhân loại”. Để phát triển con người được giáo dục với chất lượng cao Chương trình nêu lên các tiêu chí sau: (1) Phát triển cá tính của mỗi người và chăm sóc tất cả mọi người; (2) Giúp thể hiện năng lực sáng tạo và ứng dụng kiến thức, kĩ năng; (3) Có một nền tảng tri thức rộng để học tiếp và định hướng nghề nghiệp; (4) Sáng tạo những giá trị mới trên cơ sở các giá trị truyền thống dân tộc; (5) Nhiệt tình cải tạo cộng đồng như một công dân.

+ Mục tiêu giáo dục của Hàn Quốc

Chương trình năm 2007 của Hàn Quốc ghi rõ: “Mục tiêu của giáo dục Hàn Quốc nhằm giúp mỗi công dân phát triển cá tính và những kĩ năng cần thiết cho cuộc sống của một công dân độc lập dưới ánh sáng của tư tưởng nhân đạo và tinh thần trách nhiệm vì sự phồn thịnh của đất nước và nhân loại”.

- Sách giáo khoa ở Hàn Quốc

Ở Hàn Quốc, từ năm 1995 nước này bắt đầu xóa bỏ chính sách độc quyền về sách giáo khoa. Theo đó, sách giáo khoa gồm 2 loại:

Loại thứ nhất là sách giáo khao quốc gia do Bộ Giáo dục và Phát triển nguồn nhân lực Hàn Quốc (MOEHRD) tổ chức biên soạn, bao gồm tất cả sách giáo khoa mầm non và tiểu học, sách Quốc ngữ (Tiếng Hàn), Quốc sử (Lịch sử Hàn Quốc), Đạo đức cho các lớp còn lại.

Loại thứ hai là sách giáo khoa do các nhà xuất bản tư nhân tổ chức biên soạn, MOEHRD thẩm định, bao gồm sách giáo khoa dùng cho các môn học khác ở trung học. Ở THCS, có 32 bộ sách môn Toán, 9 bộ sách môn Khoa học và 10 bộ sách môn Xã hội. Ở THPT, có 28 bộ sách môn Toán (trong đó có 16 bộ cho lớp 10 và 12 bộ cho lớp 11 và 12), 8 bộ sách môn Hoá, 9 bộ sách môn Vật lý, 6 bộ sách môn Lịch sử Hàn Quốc hiện đại, 8 bộ sách môn Sinh học, 8 bộ sách môn Địa lý Hàn Quốc, 8 bộ sách môn Xã hội, 11 bộ sách môn Khoa học, v.v…

Từ năm 2009, các nhà xuất bản tư nhân được phép tổ chức biên soạn và phát hành sách giáo khoa THCS và THPT kể cả các môn Quốc ngữ, Quốc sử và Đạo đức. Tất cả sách giáo khoa tiểu học sẽ do MOEHRD tổ chức biên soạn, ngoại trừ sách giáo khoa môn Thể dục, Âm nhạc, Nữ công gia chánh và Tiếng Anh dành cho các nhà xuất bản tư nhân, MOEHRD chỉ kiểm tra và sửa đổi những chỗ cần thiết. Các trường học có thể lựa chọn một số sách không qua thẩm định của nhà nước, trừ sách giáo khoa các môn Quốc ngữ, Đạo đức, Xã hội, Toán, Khoa học, Kỹ thuật, Âm nhạc, Thể dục. Thậm chí MOEHRD khuyến khích các trường tự biên soạn sách giáo khoa để càng ngày càng có thêm nhiều người tham gia vào việc biên soạn những cuốn sách có chất lượng cao cho học sinh.

Từ năm 2015, sách giáo khoa bằng giấy có số lượng rất ít tại các trường tiểu học và trung học Hàn Quốc. Thay vào đó, tài liệu giáo khoa sẽ được chuyển tải dưới dạng kỹ thuật số. Học sinh chỉ cần học thông qua máy tính hay các thiết bị số khác. Bộ Giáo dục Hàn Quốc cho ra khoảng 2,4 tỷ USD (năm 2011) dùng đầu tư cho việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng cần thiết như mua máy tính cá nhân hay các thiết bị khác đáp ứng cho cuộc chuyển đổi trong thời gian từ 2011-2015. Đến hết năm 2014, sách giáo khoa, sách tham khảo, từ điển hay các tài liệu bằng giấy khác tại các trường tiểu học sẽ được số hoá hoàn toàn, quá trình này mở rộng sang học sinh cấp 2 và 3 trong năm tiếp theo.

- Đội ngũ giáo viên

Hàn Quốc có tỷ lệ cao hơn hầu hết các quốc gia OECD khác về độ tuổi giáo viên, trung bình dưới 40 tuổi và ở cả hai cấp tiểu học và trung học, đều được ổn định về giáo viên cả về số lượng và chất lượng. Giáo viên tiểu học tiềm năng phải hoàn thành chương trình giáo dục bốn năm và hoàn thành bài kiểm tra đầu vào. Hàn Quốc có thang lương theo độ dốc từ mức lương khởi điểm và mức lương ở mức cao nhất, với tỷ lệ ở mức cao nhất là 2,8 lần so với mức lương khởi điểm cho tất cả các cấp từ sơ cấp đến trung học phổ thông (so với tỷ lệ trung bình của OECD là 1,9 đối với tiểu học và trung học cơ sở và 1,8 cho trung học phổ thông). Hàn Quốc cũng đánh giá cao nghề dạy học và được coi là nghề có giá trị trong xã hội. Tỷ lệ 63,4% giáo viên nói rằng họ sẽ trở thành giáo viên nếu họ có thể quyết định lại (so với mức trung bình 77,6% của OECD).

  1. Năng lực, hiệu quả của nguồn nhân lực quốc gia và chất lượng giáo dục đào tạo

4.1. Hiệu quả của nguồn nhân lực quốc gia

- Năng suất lao động

Chỉ số năng suất lao động của Hàn Quốc có tốc độ tăng tương đối ổn định qua các năm, trong khoảng 4 năm gần đây, năng suất lao động đều vượt chỉ số trên 100, năm 2017 đạt 109.7 và 2018 đạt 109.2 điểm (tính đến hết tháng 7 năm 2018). Điều này khẳng định chất lượng nguồn nhân lực của Hàn Quốc rất ổn định và được bồi dưỡng qua các năm cả về kiến thức chuyên môn, trình độ tay nghề và kinh nghiệm quản lý. Việc đào tạo tại trường đại học, cao đẳng và đào tạo nghề của Hàn Quốc một mặt được tiến hành rất bài bản, mặt khác rất sát với thực tế công việc. Bên cạnh đó, đào tạo trong công việc cũng được các doanh nghiệp Hàn Quốc rất chú trọng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động mới hội nhập vào môi trường có thể thích nghi, làm quen và tiếp nhận được các công việc và vị trí đảm nhận. Tất cả những điều kiện trên đã tác động đến chỉ số năng suất lao động của Hàn Quốc trong suốt thời gian qua và đây cũng là chỉ số quan trọng giúp cho sự tăng trưởng của GDP và tăng thu nhập bình quân đầu người ở Hàn Quốc.

Hình 1. Chỉ số lao động Hàn Quốc qua các năm

Nguồn: Cơ quan kinh tế thương mại Hàn Quốc, năm 2018

Nhờ có năng suất lao động bình quân cao mà thu nhập của người lao động Hàn Quốc được chi trả phù hợp và tương xứng với mức độ cống hiến trong công việc mà họ bỏ ra. Bên cạnh đó, các chế độ và chính sách đãi ngộ phi lợi nhuận cũng được các doanh nghiệp Hàn Quốc quan tâm như chăm lo đời sống gia đình và thế hệ kế tiếp, tạo môi trường làm việc thuận lợi, chế độ đào tạo nâng cao tay nghề,…

- Chi phí lao động

Cùng với việc tăng năng suất lao động, chi phí lao động của Hàn Quốc lại có xu hướng giảm dần qua các năm, điều này lại càng tạo điều kiện cộng hưởng cho hiệu quả của lao động Hàn Quốc. Hệ số chi phí lao động liên tục giảm từ năm 2015 đến năm 2018, lần lượt là 131 xuống còn 96,5. Đặc biệt, năm 2017 và 2018 là hai năm có chỉ số chi phí lao động giảm sâu so với các năm còn lại. Một mặt điều này đến từ sự cải tiến phương pháp quản trị nguồn nhân lực một mặt cũng có được từ hiệu quả của công tác đào tạo nguồn nhân lực.

Hình 2. Chi phí lao động Hàn Quốc qua các năm

Nguồn: Cơ quan kinh tế thương mại Hàn Quốc, năm 2018

Chi phí đào tạo lại lao động ở Hàn Quốc giảm đáng kể do hiệu quả của công tác đào tạo ở các trường đại học, cao đăng và đào tạo nghề mang lại. Bên cạnh đó, số lượng lao động phổ thông (chưa tham gia đào tạo) ở Hàn Quốc là không cao nên chi phí để đào tạo mới từ đầu đối với lao động này là rất thấp. Mặt khác, thị trường lao động của Hàn Quốc cũng được tổ chức một cách có hiệu quả nên việc gặp nhau giữa cung và cầu lao động rất thuận lợi, đảm bảo người tìm việc và việc tìm người luôn khớp và phù hợp với năng lực và yêu cầu. Như vậy, có thể thấy hiệu suất của nguồn nhân lực của Hàn Quốc là rất cao, một mặt năng suất lao động tăng cao, bên cạnh đó, chi phí lao động lại giảm xuống tương ứng, tạo điều kiện kép giúp cải thiện các yếu tố nguồn lực đầu vào trong quá trình sản xuất kinh doanh của Hàn Quốc.

- Số người lao động

Tỷ lệ người lao động của Hàn Quốc so với dân số ở mức độ tương đối cao so với các nước OECD, tỷ lệ hiện tại đạt 61.4% (khoảng 31.59 triệu người). Tuy nhiên, tỷ lệ lao động của Hàn Quốc cũng đang có xu hướng giảm dần và dân số có xu hướng già hóa do tỷ lệ người cao tuổi và đến tuổi nghỉ hưu của Hàn Quốc tương đối cao, mặc dù độ tuổi nghỉ hưu của Hàn Quốc cũng đã tăng dần qua các năm. Theo đó, độ tuổi nghỉ hưu bình quân trong năm 2017 tại Hàn Quốc đạt 61,1 tuổi. Năm 2013, Chính phủ đã tiến hành sửa đổi Luật khuyến khích tuyển dụng người cao tuổi, quy định độ tuổi nghỉ hưu của người lao động là trên 60 tuổi. Ngoài ra, kể từ năm 2016, Chính phủ đã bắt đầu mở rộng phạm vi áp dụng quy định trên cho các doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước có trên 300 nhân công trở lên. Kết quả điều tra cho thấy độ tuổi nghỉ hưu bình quân của người lao động tại các doanh nghiệp trên đang cho thấy xu hướng tăng theo từng năm. Cụ thể, độ tuổi nghỉ hưu bình quân trong năm 2013 là 58,8 tuổi, năm 2014 là 59,4 tuổi, năm 2015 là 59,8 tuổi và năm 2016 tăng lên 60,3 tuổi.

Bảng 1. Thống kê về lao động năm 2018 của Hàn Quốc

Tỷ lệ lao động (năm 2018)

Cuối kỳ

Đầu kỳ

Cao nhất

Thấp nhất

Đơn vị tính

Tỷ lệ lao động làm việc

61,4

61,2

61,6

56,1

%

Dân số

51,45

51,25

51,45

25,01

triệu người

Số người lao động

31,5903

31,365

31,6932

14,03061

triệu người

Nguồn: Tổng hợp từ Tradingeconomics.com

Với mức độ già hóa dân số và tỷ lệ sinh của Hàn Quốc cũng rất thấp sẽ dẫn đến nguy cơ thiếu hụt lao động ở Hàn Quốc trong thời gian tới buộc quốc gia này phải có chiến lược đối với việc thu hút nguồn nhân lực bên ngoài Hàn Quốc hoặc các hoạt động đầu tư sang các nước có nguồn cung lao động dồi dào và thậm chí cả chính sách thu hút nhân tài từ các nước thông qua chương trình học bổng du học và chính sách nhập cư đối với lực lượng lao động đó.

- Tỷ lệ lao động thất nghiệp

Hàn Quốc là một quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp tương đối thấp so với các nước OECD với tỷ lệ trung bình khoàng 3%. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp cũng cần phải tính đến các độ tuổi khác nhau. Mặc dù, tỷ lệ lao động thất nghiệp của Hàn Quốc không cao nhưng tỷ lệ lao động trẻ thất nghiệp lại là con số đáng quan tâm.

Hình 3. Tỷ lệ lao động thất nghiệp của Hàn Quốc từ 2013-2017

Nguồn: Cơ quan kinh tế thương mại Hàn Quốc, 2018

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Hàn Quốc, trong tháng 7/2018 những người thất nghiệp ở độ tuổi 25-34 đạt 338.000 người (chiếm 6,4%), mức cao kỷ lục trong 19 năm qua, chỉ sau kỷ lục được ghi vào năm 1999 với số người thất nghiệp là 434.000 người (chiếm 7,2%). Tỷ lệ thất nghiệp ở độ tuổi này cũng tăng liên tục trong những năm gần đây. Tháng 7/2014, số người thất nghiệp trong độ tuổi này đạt 305.000 người (chiếm 5,5%), sau đó giảm vào năm 2015 xuống còn 285.000 người (5,2%). Tuy nhiên, số người thất nghiệp trong độ tuổi này tăng mạnh lên 319.000 người (chiếm 6,0%) vào tháng 7/2016, 327.000 người (6,3%) vào tháng 7/2017 và tăng kỷ lục 434.000 người vào năm nay. 

- Mức lương

Hàn Quốc được đánh giá là quốc gia có GDP tăng trưởng cao và ổn định, nhờ sự khai thác tốt các yếu tố nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực mà năng suất lao động của Hàn Quốc liên tục tăng lên. Chính vì vậy, mức lương của lao động Hàn Quốc đang được trả với mức cao so với các nước phát triển ở Châu Á. Từ năm 2010 đến 2016, lương bình quân của Hàn Quốc luôn đạt ở mức trên 31.000 USD và tăng tương đối ổn định đến ngưỡng 32.399 USD vào năm 2016 với tốc độ tăng khoảng 4%/năm.

Hình 4. Lương trung bình của lao động Hàn Quốc qua các năm

Nguồn: https://www.statista.com/statistics/557759/south-korea-average-annual-wage/

4.2. Năng lực nguồn nhân lực của Hàn Quốc

- Về trình độ và kiến thức

Theo thống kê của OECD, tỷ lệ những người độ tuổi 25-34 tốt nghiệp phổ thông lên tới 98% trong khi đó mức trung bình của OECD là 84%. Còn đối với tỷ lệ ở độ tuổi này theo học đại học là 69% cao hơn mức 42% của OECD. Điều này khẳng định trình độ đại học của lao động Hàn Quốc hiện tại là rất cao ở tất cả các lĩnh vực ngành nghề và được định hướng rất tốt trong việc chọn lựa các ngành nghề lĩnh vực theo học ngay khi còn ở bậc học phổ thông.

Tỷ lệ tốt nghiệp ở trình độ tiến sĩ là 1,6%, xung quanh mức trung bình của OECD. Hàn Quốc sở hữu một tỷ lệ lớn sinh viên tốt nghiệp đại học trong lĩnh vực kỹ thuật, sản xuất và xây dựng so với mức trung bình của OECD. Tuy nhiên, phí bảo hiểm thu nhập cho những người có trình độ giáo dục đại học thấp hơn mức trung bình của OECD. Lao động có trình độ giáo dục đại học ở Hàn Quốc kiếm được việc làm nhiều hơn 38% so với những người có trình độ học vấn trung học phổ thông năm 2014 (so với mức thu nhập trung bình của OECD là 55%) và 37% của tất cả những người trưởng thành có trình độ đại học trong độ tuổi 25-64  bao gồm già nữa là phụ nữ, không có thu nhập trong năm 2014 - tỷ lệ cao nhất trong OECD.

Hình 5. Lao động Hàn Quốc tốt nghiệp đại học

Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo của OECD, 2016

- Chỉ số nguồn nhân lực Hàn Quốc

Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB đã công bố kết quả phát triển Chỉ số nguồn nhân lực (HCI- Human Capital Index). Ngân hàng thế giới lần đầu tiên đo lường về Chỉ số nguồn nhân lực của 157 quốc gia trên toàn thế giới, một phần trong dự án nguồn nhân lực của WB.

Chỉ số nguồn nhân lực là chỉ số phản ánh tình trạng y tế, giáo dục của một quốc gia, đo lường tổng nguồn nhân lực của những trẻ em sinh ra hôm nay cho tới năm 18 tuổi. Đây còn là một chỉ số phản ánh năng suất trong tương lai của đứa trẻ vừa ra đời. Chỉ số này có giá trị từ 0 tới 1, so sánh với khi một đứa trẻ được hưởng ưu đãi về giáo dục và y tế toàn diện. Chỉ số này đo lường về tỷ lệ sống sót của trẻ cho tới 5 năm tuổi, thời gian học tập dự kiến, thành tích học tập, tỷ lệ sống sót của người trưởng thành tới năm 60 tuổi, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị khuyết tật.

Bảng 2. Chỉ số nguồn nhân lực của Hàn Quốc

 

Xác suất sống sót đến 5 tuổi

Năm học dự kiến

Điểm kiểm tra hài hòa

Năm học điều chỉnh

Trẻ em dưới 5 tuổi không bị còi cọc

Tỷ lệ sống của người lớn

Chỉ số vốn con người (ngưỡng thấp)

Chỉ số vốn con ngường

Chỉ số vốn con người (ngưỡng cao)

Nam

1,00

13,6

560

12,1

-

0,92

0,79

0,81

0,84

Nam và Nữ

1,00

13,6

563

12,2

0,98

0,94

0,83

0,84

0,86

Nữ

1,00

13,6

567

12,3

-

0,96

0,83

0,85

0,87

Nguồn: Báo cáo của IMF và WB, 2018

Chỉ số nguồn nhân lực của Hàn Quốc đạt 0,84 điểm, đứng thứ hai trong số 157 quốc gia. Có nghĩa là trẻ em sinh ra tại Hàn Quốc có năng suất bằng 84% so với trẻ em sinh ra hôm nay được hưởng ưu đãi toàn diện về y tế, sức khỏe. Chỉ số nguồn nhân lực của bé gái tại Hàn Quốc là 0,85 điểm, cao hơn bé trai (0,81 điểm).

  1. Các giải pháp vận dụng bài học kinh nghiệp về phát triển nguồn nhân lực quốc gia của Hàn Quốc

5.1. Về tầm nhìn của người lãnh đạo, tính hiệu quả và minh bạch của Chính phủ

Thứ nhất, cần phải xác định vấn đề nhân lực là yếu tố nguồn lực chủ chốt và quan trọng của mọi hoạt động xã hội. Suy cho cùng thì mọi hoạt động xã hội đều xuất phát từ con người và cũng phục vụ cho con người là đầu tiên nên đây là yếu tố cần đặt lên hàng đầu trong tất cả các yếu tố nguồn lực khác như vốn, công nghệ, tài nguyên, thông tin hay các yếu tố nguồn lực khác.

Thứ hai, đối tượng và các bên tham gia phát triển nguồn nhân lực không chỉ có cơ quan tham gia vào công tác đào tạo (Bộ Giáo dục) mà còn có nhiều cơ quan khác nữa, trong đó doanh nghiệp là đơn vị tiếp nhận và sử dụng nguồn nhân lực trực tiếp và quan trọng. Chính vì vậy, khi xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực, Việt Nam không thể tách các chủ thể này ra trong quá trình hoạch định chiến lược mà cần cho doanh nghiệp tham gia vào trực tiếp và cụ thể hơn các nội dung chiến lược.

Thứ ba, để thực hiện thành công nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực quốc gia trước hết lãnh đạo ngành giáo dục và đào tạo cần thành lập Ủy ban phát triển nguồn nhân lực quốc gia của Việt Nam. Thực chất trong những năm vừa qua, Hàn Quốc đã thực hiện thành lập Ủy ban phát triển nguồn nhân lực dưới sự kiểm soát và đứng đầu của Phó thủ tướng để khẳng định vị trí và vai trò của công tác phát triển nguồn nhân lực. Việc thành lập Ủy ban phát triển nguồn nhân lực có ý nghĩa hết sức quan trọng vì vấn đề nguồn nhân lực không chỉ chịu sự quản lý của Bộ giáo dục mà còn có nhiều bộ ngành liên quan cũng có vai trò và trách nhiệm, đặc biệt còn có sự tham gia từ phía doanh nghiệp bởi lẽ đây là các đơn vị tiếp nhận và sự dụng nguồn nhân lực sau quá trình đào tạo.

Thư tư, công tác phát triển nguồn nhân lực cần phải thực hiện có chiều sâu và suốt cả thời gian học tập và làm việc của nhân sự, trong đó cần rất chú trọng tới độ tuổi nhỏ khi con người bắt đầu hình thành nhân cách và đạo đức nghề nghiệp sau khi bắt đầu công việc. Vấn đề đạo đức và kỹ năng cho nhân sự cần được quan tâm đặc biệt bên cạnh việc đào tạo nghiệp vụ cho nhân sự. Để thực hiện được việc này, cơ quan phát triển nguồn nhân lực trung ương và địa phương cần nghiên cứu và hiệu chỉnh lại chương trình và giáo trình đào tạo theo các bậc học theo hướng đưa thêm các nội dung liên quan tới đạo đức, trách nhiệm xã hội và giáo dục bền vững.

Thứ năm, thực hiện tốt công tác thông kê và minh bạch hóa nguồn nhân lực. Việc thực hiện tốt công tác thống kê nguồn nhân lực có tính hệ thống sẽ giúp cho các doanh nghiệp và đơn vị sửf dụng lao động có thể dễ dàng tiếp cận với nguồn nhân lực, bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo cũng có thể điều chỉnh hoặc thay đổi các chương trình và chuyên ngành đào tạo cho phù hợp với yêu cầu của thị trường.

5.2. Về định hướng, tầm nhìn và chiến lược tổng thể về phát triển nguồn nhân lực

Thứ nhất, mở rộng tự chủ và tiến tới xã hội hóa hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang giao quyền tự chủ cho một số trường đại học hội đủ các điều kiện, tuy nhiên, vẫn còn một số vướng mắc và quy định còn chưa cụ thể dẫn tới việc triển khai tự chủ ở các trường gặp nhiều khó khăn và chưa phát huy được hết tiềm năng của các trường đại học trong công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Do vậy, Chính phủ cần mạnh dạn hơn nữa trong việc giao quyền tự chủ ở diện rộng hơn đối với các trường đại học một mặt phát huy được tiềm năng và cơ hội phát triển cho các trường đại học vươn ra tầm khu vực và thế giới, mặt khác, đây cũng là cách để giảm bớt gánh nặng ngân sách dành cho giáo dục của Chính phủ. Sau giai đoạn tự chủ, Chính phủ cũng cần nghiên cứu cơ chế để cho các thành phần kinh tế trong đó có doanh nghiệp tham gia vào đầu tư, góp vốn một phần tại các cơ sở đào tạo nhằm gắn chặt công tác đào tạo giữa cơ sở đào tạo với đơn vị sử dụng nguồn nhân lực đầu ra cả về sở hữu, chương trình đào tạo và công việc của người học sau khi được đào tạo.

Thứ hai, xây dựng khung tiêu chuẩn nhân lực quốc gia trong bối cảnh mới. Hiện nay, năng lực kiến thức và chuyên môn của nhân sự đào tạo đang được đưa ra bởi các cơ sở đào tạo dựa theo hướng dẫn của Bộ giáo dục và Đào tạo. Tuy nhiên, trên thực tế tiêu chuẩn này chỉ mang tính định tính và rất chung chung chưa gắn với thực tế và yêu cầu của các đơn vị sử dụng nguồn nhân lực. Đây chính là nguyên nhân của khoảng cách giữa kết quả đào tạo của cơ sở đào tạo và yêu cầu năng lực và kỹ năng của đơn vị sử dụng lao động. Để công tác đào tạo sát với thực tế hơn, Bộ giáo dục và Đào tạo cần xây dựng khung tiêu chuẩn nhân lực quốc gia theo các ngành và chuyên ngành làm chuẩn trên cơ sở kết hợp với doanh nghiệp và các đơn vị sử dụng nguồn nhân lực có tính toán đến yêu cầu hội nhập và cách mạng công nghiệp 4.0.

5.3. Về các chính sách cụ thể trong việc trọng dụng và thu hút nhân tài

Thứ nhất, xây dựng hệ thống lương, thưởng và các chế độ ưu đãi thu hút nhân tài: chế độ lương thưởng cần xây dựng dựa trên năng lực và hiệu quả công việc của nhân lực, tránh xây dựng theo kiểu cào bằng với các thang đo cố định như hiện nay. Bên cạnh chế độ lương, thưởng cũng cần xây dựng cơ chế về điều kiện chỗ ở, phương tiện di chuyển và làm việc của nguồn nhân lực cũng như hệ thống đãi ngộ để trọng dụng nhân tài.

Thứ hai, xây dựng chính sách thu hút nhân tài từ các nước đến làm việc tại Việt Nam. Kinh nghiệm của Hàn Quốc đã triển khai nhiều năm và có được kết quả rất khả quan và đã có số lượng nhân sự lớn ở lại sau khi đào tạo và nhân sự có chất lượng cao đến từ các nước khác. Để xây dựng chính sách này, Việt Nam cần tập trung xây dựng cơ chế đãi ngộ tài chính và phi tài chính, cơ chế nhập cư và sở hữu bất động sản và động sản tại Việt Nam và các chính sách khác. Việt Nam cần phải xây dựng một quy trình hết sức khoa học, bao quát từ vấn đề tìm nguồn, tạo  nguồn tới vấn đề lựa chọn, tuyển dụng và vấn đề giám sát, đánh giá hiệu quả cho đội ngũ nhân tài của quốc gia. Quy trình này phải hướng tới việc xây dựng đội ngũ nhân lực tài năng cho cả một thời kỳ dài để hình thành nền kinh tế tri thức, chứ không chỉ là cho nhu cầu phát triển hiện tại của đất nước. Có thể đặt tên cho quy trình mang tính chiến lược này là: “Nhân tài cho tương lai”. Trong quy trình đó, phải đặc biệt chú trọng tới đội ngũ nhân tài làm việc trong khu vực công. Ðội ngũ này phải được hoạch định từ việc tìm nguồn đến việc tuyển chọn; từ việc sắp xếp công việc phù hợp để phát huy tối đa sở trường tới việc đãi ngộ xứng đáng để tránh hiện tượng “chảy máu chất xám” từ khu vực công sang khu vực tư như đang diễn ra rất phổ biến ở Việt Nam hiện nay. Các bộ, ngành, đặc biệt là những ngành công nghệ cao - đại diện cho nền kinh tế tri thức cần có những thử nghiệm táo bạo trong việc mời những trí thức Việt kiều đã thành công ở những nước phát triển về nắm giữ một số vị trí then chốt trong bộ máy lãnh đạo của bộ, ngành mình để tạo nên những đột phá cần thiết, kéo theo sự thay đổi của toàn bộ nền kinh tế.

 

Thứ ba, tạo môi trường thuận lợi cho nhân tài có điều kiện làm việc và phát huy hết khả năng của cá nhân. Trong những năm gần đây, có nhiều Tỉnh/Thành phố đã ban hành nhiều cơ chế thu hút nhân tài về làm việc lâu dài, tuy nhiên, những chính sách chỉ tập trung vào lương, thưởng và chỗ ở là chưa đủ. Điều quan trọng hơn cả là môi trường và điều kiện làm việc, sự giao quyền, ủy quyền và hợp tác trong công việc để nhân tài có thể phát huy được hết khả năng của mình khi đã toàn tâm, toàn ý làm việc lâu dài tại địa phương. Bên cạnh đó, người lãnh đạo của đơn vị, tổ chức phải thực sự coi trọng và tạo điều kiện hết sức để nhân tố nguồn lực mới này có thể phát huy hết khả năng của mình. Mỗi địa phương, dựa trên đặc điểm và nhu cầu cụ thể của mình cần có những chiến lược và chính sách linh hoạt, đa dạng để trọng dụng nguồn nhân lực tài năng phù hợp. Tránh trường hợp trọng dụng nhân tài theo kiểu phong trào, địa phương nào cũng có chính sách “trải thảm đỏ” thu hút nhân tài nhưng không thiết thực, hiệu quả làm lãng phí nguồn chất xám của đất nước như thời gian gần đây.

5.4. Về chính sách chú trọng cho giáo dục và đào tạo

Thứ nhất, ưu tiên và tăng cường ngân sách đầu tư cho đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Hiện nay, chi ngân sách đầu tư cho giáo dục ở Việt Nam chiếm khoảng 5% GDP, mặc dù mức chi ngân sách này được coi là mức trung bình so với các nước trong khu vực, tuy nhiên, nếu tính theo đầu người thì Việt Nam vẫn là quốc gia có mức chi đầu tư cho giáo dục thấp do GDP của Việt Nam thấp hơn so với các nước. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực luôn là yếu tố đầu vào quan trọng và cần được đầu tư mạnh mẽ đối với các quốc gia đang phát triển nhằm tạo động lực bứt phá. Do vậy, Việt Nam cần tăng chi đầu tư cho giáo dục và đào tạo phát triển nguồn nhân lực và cần sử dụng có hiệu quả đối với các khoản chi tiêu này.

Thứ hai, quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục ở bậc mầm non và tiểu học bởi lẽ đây là gốc rễ và nền móng quan trong của nguồn nhân lực trong tương lai. Thực chất công tác giáo dục ở bậc mầm non và tiểu học ở Việt Nam còn thiếu và yếu, bên cạnh đó công tác quản lý còn rất nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy, học sinh ở bậc tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông học căng thẳng, chịu “tải” nhiều hơn ở bậc học đại học. Học sinh và phụ huynh đều lao vào cuộc chạy đua trang bị kiến thức với sự mệt mỏi và cảm giác “vô lý”, nhưng lại không yên tâm để dừng lại. Học sinh phải học và nhớ nhiều kiến thức lý thuyết nhưng khi học xong, hoặc không nhớ, hoặc chóng quên, trong khi kiến thức thực tế, cách cư xử trong gia đình, kỹ năng làm việc theo nhóm, cách giao tiếp, hành xử trong cộng đồng..., lại được đào tạo, giáo dục không tương xứng. Thêm vào đó, chương trình giáo dục chưa thực sự phù hợp do chỉ tập trung vào việc học tập mà bỏ qua việc đào tạo kỹ năng cho trẻ. Công tác này được Hàn Quốc đặc biệt quan tâm và đầu tư nhiều ngân sách, chương trình và cả đội ngũ giáo viên chuyên nghiệp để thực hiện.

Thứ ba, tiếp tục thực hiện đề án đào tạo cán bộ tại nước ngoài bằng ngân sách nhà nước. Thêm vào đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần thiết kế những dự án du học để đảm bảo số lượng du học sinh sau khi học tập phần lớn sẽ trở về cống hiến cho công cuộc phát triển đất nước. Bên cạnh đó, tăng cường hợp tác quốc tế để nhận thêm các hỗ trợ từ các quốc gia phát triển cấp học bổng cho học sinh, sinh viên Việt Nam sang học tập tại các nước phát triển và có cơ chế quản lý và chính sách phù hợp để lưu học sinh trở về làm việc tại Việt Nam sau khi tốt nghiệp.

  1. Kết luận

Nguồn nhân lực là yếu tố nguồn lực quan trọng nhất đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Để có được nguồn nhân lực chất lượng cao, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, cần phải xây dựng chiến lược và chính sách nguồn nhân lực đồng bộ và khoa học dựa trên việc tổng kết thực tiễn và học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, đặc biệt là Hàn Quốc. Thông qua nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của Hàn Quốc, đứng ở góc độ chiến lược và chính sách cho thấy, để có được nguồn nhân lực chất lượng cao đặc biệt cần đến tầm nhìn của lãnh đạo, tính hiệu quả và minh bạch của Chính phủ, định hướng chiến lược nhân sự tổng thể, chính sách thu hút nhân tài và đặc biệt là chính sách giáo dục và đào tạo. Cùng với đó, chúng ta cũng cần xây dựng một hệ thống thông tin về cung cầu nhân sự ở quy mô quốc gia và có những tính toán, dự báo đầu vào phục vụ cho công tác hoạch định nhân lực để thực hiện việc xây dựng chiến lược và chính sách nguồn nhân lực một cách bền vững trong tương lai.   

Tài liệu tham khảo

  1. Bassanini, A., and Scarpetta S. (2001), Does human capital matter for growth in OECD countries? Evidence from pooled mean-group estimates. OECD Economics Department Working Paper No.282. Paris: OECD.
  2. Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (2018), Chính sách giáo dục và đào tạo nghề Hàn Quốc được xây dựng phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế, http://www.molisa.gov.vn/vi/Pages/chitiettin.aspx?IDNews=27679, truy cập ngày 09/01/2019.
  3. Bùi Mạnh Hùng (2012), “Vài nét về giáo dục Hàn Quốc và kinh nghiệp đối với Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHSP TPHCM, Số 34, 3-9.
  4. Chu Văn Cấp (2014), “Giáo dục đào tạo với phát triển nguồn nhân lực của Hàn Quốc và những gợi mở cho Việt Nam”, Tạp chí Phát triển & Hội nhập số 17, 85-88.
  5. Goldman Sachs (2009), “The Long-term Outlook for the BRICS and N-11 Post Crisis”, Global Economics Paper, No: 192.
  6. Koo, H.B (1991), Korea’s Industrialization and Social Capability,Korea Development Institute, Seoul, Korea.
  7. Lucas, R (1988), “On the mechanics of economics”, Journal of Monetary Economics 22, 3-42.
  8. Ministry of Education & Human Resources Development (2008), Korea Education 2007-2008, Republic of Korea.
  9. Ministry of Education & Human Resources Development (2004), Report "Brief Statistics on Korean Education 2003", Korean Educational Development Institute.
  10. Ministry of Education & Human Resources Development (2005), Report 2005 "Education in Korea".
  11. Ministry of Labor (2004), Labor laws of Korea, Seoul, Republic of Korea.
  12. OECD (2016), Education Policy Outlook Korea, http://www.oecd.org/education/Education-Policy-Outlook-Korea.pdf.
  13. OECD (2012), Education at a Glance: OECD Indicators, Korea, https://www.oecd.org/education/EAG2012%20-%20Country%20note%20-%20Korea.pdf.
  14. Romer, P (1986), “Increasing Returns and Long-Run Growth”, The Journal of Political Economy 94(5), 1002-1037.
  15. Squire, L., Knowlton, B., and Musen, G (1993), “The structure and organization of memory”, Annual Review of Psychology 44, 453-495.
  16. Võ Hải Thanh (2014), Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông ở Hàn Quốc, Trung tâm Nghiên cứu Hàn Quốc – Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.

 

 

[1] Bài viết là sản phẩm của Đề tài “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong cơ chế thị trường” (thuộc Chương trình KHCN Giáo dục Quốc gia giai đoạn 2016-2020), mã số KHGD/16-20.ĐT.019

[2] Trường Đại học Ngoại thương, email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Email: Địa chỉ email này đang được bảo vệ từ spam bots. Bạn cần bật JavaScript để xem nó.

[4] https://www.gfmag.com/global-data/country-data/south-korea-gdp-country-report

[5] https://tradingeconomics.com/south-korea/gdp